TAM THẾ PHẬT LÀ AI VÀ CÓ Ý NGHĨA GÌ ?
Tam thế phật là ai?
Thứ 1, chữ Thế có thể hiểu là Thời. Vậy Tam Thế Phật là Phật 3 thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Phật quá khứ là Phật A Di Đà tượng trưng cho các đức Phật trong quá khứ , Phật hiện tại là Phật Thích Ca Mâu Ni , Phật tương lai là Phật Di Lặc tượng trưng cho các vị Phật tương lai. Nói rộng ra theo nghĩa này thì Tam Thế Phật là Phật của cả 3 thời: quá khứ, hiện tại và tương lai, tức là vô lượng vô biên vô số chư Phật mười phương.
Thứ 2, chữ Thế có thể hiểu là Thế giới, gồm có phương Đông là thế giới Tịnh Lưu Ly của Phật Dược Sư, phương Tây là thế giới Cực Lạc của Phật A Mi Đà và trung tâm là thế giới Sa Bà của Phật Thích Ca Mâu Ni…. Theo nghĩa này, Tam Thế Phật là không gian vô lượng của thế giới chư Phật từ Đông sang Tây, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới, …, vô lượng vô biên vô số quốc độ Phật như thế.
Bộ tượng tam thế phật.
Bộ tượng này gồm có 3 pho giống hệt nhau, thường được tạc trong tư thế ngồi thiền kiết già . Ta thường gọi theo thói quen là tượng “Tam Thế”. Thực ra đây chỉ là tên gọi tắt theo thói quen của người Việt, để chỉ các vị Phật ở Quá khứ, Hiện tại và Tương lai. Tên gọi đầy đủ của bộ tượng này có nhiều, song phổ cập là “Tam Thế Tam Thiên Phật” tức 3.000 đức Phật, mỗi thời 1.000 vị, hay “TamThế Thường Trụ Diệu Pháp Thân” là nhằm tôn sùng cái hình tướng chân thật, sáng láng, kỳ diệu, luôn tồn tại khắp không gian và xuyên thời gian của các đức Phật.
Tam thế Tam thiên Phật nghĩa là ba ngàn Đức Phật trong ba đời, bao gồm :
1. Qúa khứ thế nhất thiên Phật : Nghĩa là vào thời quá khứ nhằm Kiếp Trang Nghiêm có 1000 Đức Phật xuất thế như Phật Tỳ Bà Thi, Thích Khí, Tỳ Xá Phù là những vị Phật sau cùng trong số một ngàn Đức Phật thuở ấy.
2. Hiện tại thế nhất thiên Phật : Nghĩa là đương thời nhằm Hiền Kiếp có 1000 Đức Phật lần lượt ra đời, như những Đức Phật Ca La Ca Tôn Đại, Câu Na Hàm Mâu Ni, Ca Diếp, Thích Ca Mâu Ni và Ngài Di Lặc sẽ là vị Phật thứ năm và lần lượt sẽ ra đời cho đủ số 1000 vị Phật ở đời hiện tại nhằm Kiếp Hiền này.
3. Vị lai thế nhất thiên Phật : Nghĩa là đời vị lai nhằm kiếp Tinh Tú sẽ lần lượt ra đời 1000 Vị Phật, 1000 vị Phật này ở đời hiện tại nhằm kiếp Hiền chấm dứt.
Quá trình và điều kiện để tu thành Phật:
Theo Tam Tạng Pàli, bộ kinh Phật sử (tên khác là “Chánh giác tông”) thì chúng sinh nào cũng có thể trở thành một vị Phật, nhưng không phải dễ dàng, mà phải thực hành cho đúng và đủ theo thời hạn và các điều kiện nhất định. Đầu tiên, một chúng sinh muốn thành Phật thì phải phát tâm nguyện, tâm nguyện này được một vị Phật nghe và thọ ký cho. Chúng sinh này muốn được Phật thọ ký thì phải tròn đủ 8 điều kiện:
– Phải là loài người chớ không phải trời hay thú.
– Phải là nam chứ không phải là phụ nữ hay là bán nam bán nữ (thái giám).
– Có đủ duyên lành để đắc quả A-la-hán ngay trong kiếp ấy, nhưng quyết định không tu thành A-la-hán mà nguyện thành Phật
– Gặp được Đức Phật ra đời và được làm một điều phước thiện nào đó cho Đức Phật ấy.
– Phải là người xuất gia, tu sĩ.
– Phải đầy đủ những pháp của bậc cao nhân là có ngũ thông và đạt bát thiền.
– Đã được làm phước báu cao thượng là bố thí mạng sống mình và vợ con mình do tâm nguyện cho thành Phật Chánh giác.
– Phải có ý nguyện dũng mãnh, quyết trở thành một vị Phật Chánh giác, dù cho khó khăn, khổ sở thế nào cũng không nao núng và thối chuyển.
Sau khi đã được Phật thọ ký cho rồi, chúng sinh này phải tiếp tục luân hồi trong vô số kiếp sống để tích lũy đầy đủ các pháp Ba-la-mật thì mới thành một vị Phật được. Theo Thượng tọa bộ (hay Phật giáo Nguyên Thủy), mười điều hoàn thiện (pa. pāramī) là (từ gốc trong tiếng Pali):
– Dāna (sa. dāna): bố thí
– Sīla (sa. śīla): trì giới
– Nekkhamma (sa. niṣkramaṇa): xuất gia (từ bỏ cuộc sống tại gia cư sĩ)
– Paññā (sa.prajñā): trí tuệ
– Viriya (sa. vīrya): tinh tấn
– Khanti (sa. kṣānti): nhẫn nại
– Sacca (sa. satya): chân thật
– Adhiṭṭhāna (sa. adhiṣṭhāna): quyết định
– Mettā (sa. maitrī): tâm từ
– Upekkhā (sa. upekṣā): tâm xả
Trong mỗi pháp trên đây đều chia làm 3 bậc là: hạ, trung, thượng, thành ra 30 pháp. Ví dụ với pháp “Bố thí”: bố thí của cải gọi là bố thí Ba-la-mật bậc hạ, bố thí các bộ phận cơ thể của mình gọi là bố thí Ba-la-mật bậc trung, bố thí sinh mạng của mình để cứu chúng sinh khác gọi là bố thí Ba-la-mật bậc thượng. 9 pháp kia cũng tương tự như vậy.
Các chư Bồ-tát (là chúng sinh đã được một vị Phật thọ ký rằng sẽ thành Phật trong tương lai) chia làm 3 bậc:
– Bồ-tát thuộc về huệ lực: thời kỳ nguyện trong tâm không nói ra lời, là 7 A-tăng-kỳ đại kiếp. Thời kỳ phát nguyện ra lời mà chưa gặp Phật nào thọ ký là 9 A-tăng-kỳ. Thời kỳ gặp một vi Phật thọ ký cho tới khi thành tròn đủ 30 pháp Ba-la-mật và thành đạo là 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
– Bồ-tát thuộc về tín lực (là có nhiều đức tin): thời kỳ nguyện trong tâm không nói ra lời, là 14 A-tăng-kỳ đại kiếp. Thời kỳ phát nguyện ra lời mà chưa gặp Phật nào thọ ký là 18 A-tăng-kỳ. Thời kỳ gặp một vi Phật thọ ký cho tới khi thành tròn đủ 30 pháp Ba-la-mật và thành đạo là 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
Thứ 2, chữ Thế có thể hiểu là Thế giới, gồm có phương Đông là thế giới Tịnh Lưu Ly của Phật Dược Sư, phương Tây là thế giới Cực Lạc của Phật A Mi Đà và trung tâm là thế giới Sa Bà của Phật Thích Ca Mâu Ni…. Theo nghĩa này, Tam Thế Phật là không gian vô lượng của thế giới chư Phật từ Đông sang Tây, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới, …, vô lượng vô biên vô số quốc độ Phật như thế.
Bộ tượng tam thế phật.
Bộ tượng này gồm có 3 pho giống hệt nhau, thường được tạc trong tư thế ngồi thiền kiết già . Ta thường gọi theo thói quen là tượng “Tam Thế”. Thực ra đây chỉ là tên gọi tắt theo thói quen của người Việt, để chỉ các vị Phật ở Quá khứ, Hiện tại và Tương lai. Tên gọi đầy đủ của bộ tượng này có nhiều, song phổ cập là “Tam Thế Tam Thiên Phật” tức 3.000 đức Phật, mỗi thời 1.000 vị, hay “TamThế Thường Trụ Diệu Pháp Thân” là nhằm tôn sùng cái hình tướng chân thật, sáng láng, kỳ diệu, luôn tồn tại khắp không gian và xuyên thời gian của các đức Phật.
Tam thế Tam thiên Phật nghĩa là ba ngàn Đức Phật trong ba đời, bao gồm :
1. Qúa khứ thế nhất thiên Phật : Nghĩa là vào thời quá khứ nhằm Kiếp Trang Nghiêm có 1000 Đức Phật xuất thế như Phật Tỳ Bà Thi, Thích Khí, Tỳ Xá Phù là những vị Phật sau cùng trong số một ngàn Đức Phật thuở ấy.
2. Hiện tại thế nhất thiên Phật : Nghĩa là đương thời nhằm Hiền Kiếp có 1000 Đức Phật lần lượt ra đời, như những Đức Phật Ca La Ca Tôn Đại, Câu Na Hàm Mâu Ni, Ca Diếp, Thích Ca Mâu Ni và Ngài Di Lặc sẽ là vị Phật thứ năm và lần lượt sẽ ra đời cho đủ số 1000 vị Phật ở đời hiện tại nhằm Kiếp Hiền này.
3. Vị lai thế nhất thiên Phật : Nghĩa là đời vị lai nhằm kiếp Tinh Tú sẽ lần lượt ra đời 1000 Vị Phật, 1000 vị Phật này ở đời hiện tại nhằm kiếp Hiền chấm dứt.
Quá trình và điều kiện để tu thành Phật:
Theo Tam Tạng Pàli, bộ kinh Phật sử (tên khác là “Chánh giác tông”) thì chúng sinh nào cũng có thể trở thành một vị Phật, nhưng không phải dễ dàng, mà phải thực hành cho đúng và đủ theo thời hạn và các điều kiện nhất định. Đầu tiên, một chúng sinh muốn thành Phật thì phải phát tâm nguyện, tâm nguyện này được một vị Phật nghe và thọ ký cho. Chúng sinh này muốn được Phật thọ ký thì phải tròn đủ 8 điều kiện:
– Phải là loài người chớ không phải trời hay thú.
– Phải là nam chứ không phải là phụ nữ hay là bán nam bán nữ (thái giám).
– Có đủ duyên lành để đắc quả A-la-hán ngay trong kiếp ấy, nhưng quyết định không tu thành A-la-hán mà nguyện thành Phật
– Gặp được Đức Phật ra đời và được làm một điều phước thiện nào đó cho Đức Phật ấy.
– Phải là người xuất gia, tu sĩ.
– Phải đầy đủ những pháp của bậc cao nhân là có ngũ thông và đạt bát thiền.
– Đã được làm phước báu cao thượng là bố thí mạng sống mình và vợ con mình do tâm nguyện cho thành Phật Chánh giác.
– Phải có ý nguyện dũng mãnh, quyết trở thành một vị Phật Chánh giác, dù cho khó khăn, khổ sở thế nào cũng không nao núng và thối chuyển.
Sau khi đã được Phật thọ ký cho rồi, chúng sinh này phải tiếp tục luân hồi trong vô số kiếp sống để tích lũy đầy đủ các pháp Ba-la-mật thì mới thành một vị Phật được. Theo Thượng tọa bộ (hay Phật giáo Nguyên Thủy), mười điều hoàn thiện (pa. pāramī) là (từ gốc trong tiếng Pali):
– Dāna (sa. dāna): bố thí
– Sīla (sa. śīla): trì giới
– Nekkhamma (sa. niṣkramaṇa): xuất gia (từ bỏ cuộc sống tại gia cư sĩ)
– Paññā (sa.prajñā): trí tuệ
– Viriya (sa. vīrya): tinh tấn
– Khanti (sa. kṣānti): nhẫn nại
– Sacca (sa. satya): chân thật
– Adhiṭṭhāna (sa. adhiṣṭhāna): quyết định
– Mettā (sa. maitrī): tâm từ
– Upekkhā (sa. upekṣā): tâm xả
Trong mỗi pháp trên đây đều chia làm 3 bậc là: hạ, trung, thượng, thành ra 30 pháp. Ví dụ với pháp “Bố thí”: bố thí của cải gọi là bố thí Ba-la-mật bậc hạ, bố thí các bộ phận cơ thể của mình gọi là bố thí Ba-la-mật bậc trung, bố thí sinh mạng của mình để cứu chúng sinh khác gọi là bố thí Ba-la-mật bậc thượng. 9 pháp kia cũng tương tự như vậy.
Các chư Bồ-tát (là chúng sinh đã được một vị Phật thọ ký rằng sẽ thành Phật trong tương lai) chia làm 3 bậc:
– Bồ-tát thuộc về huệ lực: thời kỳ nguyện trong tâm không nói ra lời, là 7 A-tăng-kỳ đại kiếp. Thời kỳ phát nguyện ra lời mà chưa gặp Phật nào thọ ký là 9 A-tăng-kỳ. Thời kỳ gặp một vi Phật thọ ký cho tới khi thành tròn đủ 30 pháp Ba-la-mật và thành đạo là 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
– Bồ-tát thuộc về tín lực (là có nhiều đức tin): thời kỳ nguyện trong tâm không nói ra lời, là 14 A-tăng-kỳ đại kiếp. Thời kỳ phát nguyện ra lời mà chưa gặp Phật nào thọ ký là 18 A-tăng-kỳ. Thời kỳ gặp một vi Phật thọ ký cho tới khi thành tròn đủ 30 pháp Ba-la-mật và thành đạo là 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
– Bồ-tát thuộc về tấn lực (nhiều sự tinh tấn): thời kỳ nguyện trong tâm không nói ra lời, là 28 A-tăng-kỳ đại kiếp. Thời kỳ phát nguyện ra lời mà chưa gặp Phật nào thọ ký là 36 A-tăng-kỳ. Thời kỳ gặp một vi Phật thọ ký cho tới khi thành tròn đủ 30 pháp Ba-la-mật và thành đạo là 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
“Đại kiếp” ở đây là một kiếp của quả địa cầu, tức là quá trình hình thành, phát triển rồi hoại diệt của cả một hành tinh, kéo dài nhiều tỷ năm. Còn A-tăng-kỳ là “số lượng không thể tính đếm” (vượt qua cả hàng tỷ tỷ tỷ). Như vậy, thời gian cần để một chúng sinh tu thành Phật là cực kỳ dài, đến mức vượt qua khỏi khả năng tưởng tượng hoặc hiểu biết của phàm nhân.
Nói vậy sẽ thấy, 1 vị Phật ra đời và độ sinh là hiếm hoi như thế nào, vậy nên có câu “Trong vô số kiếp luân hồi thì có được thân người là khó (đa phần chúng sinh chỉ có thân súc sinh), có được thân người thì đủ duyên để xuất gia đi tu là khó, xuất gia đi tu rồi thì có duyên gặp Phật tại thế là càng khó”. Người được gặp Phật, nghe Phật thuyết pháp là phải có rất nhiều căn duyên lành, bởi xác suất xảy ra là vô cùng hãn hữu, giống như rùa mù nổi lên trúng một khúc gỗ trôi giữa đại dương vậy.
28 vị Phật toàn giác trong quá khứ:
Đức Thích Ca Mâu Ni giảng giải cho Đại đức Xá Lợi Phất rằng: tính từ cách đây 4 A-tăng-kỳ (*) ( và 100 ngàn đại kiếp trái đất đến nay, đã có 28 Đức Phật tổ đã ra đời giáo hóa chúng sinh.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vị Phật thứ 28 mà chúng ta được biết đến nhiều nhất. Bồ Đề Đạo Tràng – Ấn Độ (Bodh Gaya – India) nơi Ngài đắc đạo sau 49 ngày tọa thiền dưới gốc cây Bồ đề – cũng là điểm du lịch tâm linh mà bất cứ Phật tử nào cũng muốn được ghé thăm ít nhất một lần.
Các vị Phật trong thế giới ta bà (sahalokadhātu) của chúng ta được nói đến trong hai tài liệu chính: Kinh Đại Bổn và Kinh Địa Tạng.
1. Các vị Phật quá khứ được nói đến có lẽ đầu tiên trong Kinh Đại Bổn (p: Mahā-padāna Sua) là 6 vị:
– Vipassī (s: vipaśyin, Hán: Tì Bà Thi),
– Sikhī (s: śikhin, Hán: Thí Khi),
– Vessabhū (s: viśvabhū, Hán: Tỳ Xá Phù),
– Kakusandha (s: krakucchanda, Hán: Câu Lưu Tôn),
– Konāgamana (s: konakamuni =kanakamuni = kanaka = konaka (-nāma) = konakasāhvaya = konagamuni, Hán: Câu Na Hàm Mâu Ni),
– Kassapa (s: Kaśyapa, Hán: Ca Diếp),
Rồi đến Phật hiện tại là Thích Câu Mâu Ni (p: sakkamuni, s: sakyamuni) và Phật tương lai sẽ là Di Lặc
2. Nhưng khi bộ Buddhavamsa (Phật Sử, Chánh Giác Tông) được viết vào thời vua A Dục (aśoka, 272 – 236 trước Tây lịch) thì từ đầu đến chương 26 nêu ra 24 vị Phật quá khứ từ Phật Nhiên Đăng (Dīpankara) tới Phật Ca Diếp (Kassapa) xuất hiện trước đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni.
3. Rồi trong chương 27 lại thêm 3 vị nữa xuất hiện trước Phật Nhiên Đăng là Tanhankara, Medhankara, và Saranankara. Như vậy tất cả là 27 vị Phật quá khứ xuất hiện trước Phật hiện tại Thích Ca Mâu Ni.
Tất cả 28 vị Phật nầy đã xuất hiện lần lượt trong các kiếp như sau:
– Kiếp tinh túy hương (kiếp trang nghiêm) (Sāramanda-kappa): Bốn vị Phật thứ 1, 2, 3, 4 là Tanhankara, Medhankara, Saranankara, và Dīpankara,
– Kiếp hương (Sāra-kappa): Một vị Phật thứ 5 là Kondañña,
– Kiếp tinh túy hương (kiếp trang nghiêm) (Sāramanda-kappa): Bốn vị Phật thứ 6, 7, 8, 9 là Mangala, Sumana, Revata, Sobhita,
– Kiếp ân huệ (Vara-kappa): Ba vị Phật thứ 10, 11, 12 là Anomadassī, Paduma, Nārada,
– Kiếp hương (Sāra-kappa): Một vị Phật thứ 13 là Padumuara,
– Kiếp tinh túy (Manda-kappa): Hai vị Phật thứ 14, 15 là Sumedha, Sujāta,
– Kiếp ân huệ (Vara-kappa): Ba vị Phật thứ 16, 17, 18 là Piyadassī, Ahadassī, Dhammadassī,
– Kiếp hương (Sāra-kappa): Một vị Phật thứ 19 là Siddhaha,
– Kiếp tinh túy (Manda-kappa) : Hai vị Phật thứ 20, 21 là Tissa, Phussa,
– Kiếp hương (Sāra-kappa): Một vị Phật thứ 22 là Vipassī,
– Kiếp tinh túy (Manda-kappa): Hai vị Phật thứ 23, 24 là Sikhī, Vessabhū,
– Kiếp hiền (Bhadda-kappa): Năm vị Phật thứ 25, 26, 27, 28, 29 mà bốn vị đã xuất hiện là Kakusandha, Konagamana, Kassapa, Gotama (Phật Thích Ca Mâu Ni là phật mà hiện nay nhân loại đang thờ cúng). Đức Phật thứ 29 là Metteyya (Chính là Phật Di Lặc) sẽ xuất hiện trong tương lai.
Không có kiếp trái đất nào có nhiều hơn 5 vị Phật cùng giáng sinh. Có những giai đoạn kéo dài cả 1 A-tăng-kỳ đại kiếp trái đất mà không có vị Phật nào ra đời. Khoảng cách ra đời giữa các vị Phật trong cùng 1 kiếp trái đất cũng phải kéo dài tới hàng triệu, hàng tỷ năm (do một kiếp Trái Đất kéo dài hàng tỷ, hàng chục tỷ năm). Như vậy, cơ hội để chúng sinh được nghe hoặc đọc Chánh Pháp do một vị Phật thuyết giảng là vô cùng nhỏ nhoi và vô cùng quý báu.
Giải thích: A tăng kỳ hay A-tăng-kỳ (sa: असंख्येय, Asaṃkhyeya) là một tên gọi được dùng trong Phật giáo để chỉ con số 10140 hoặc cho số 10(a+2^b) đã được liệt kê trong Kinh Hoa Nghiêm, các giá trị a=5, b=103 nếu tính theo bản dịch của ngài Phật-đà-bạt-đà-la (Buddhabhadra), a=7, b=103 theo bản dịch của ngài Thật Xoa Nan Ðà (Shikshananda) và a=10, b=104 theo Thomas Cleary nhưng ông có sai sót trong tính toán.
A tăng kỳ là một từ tiếng Phạn xuất hiện thường xuyên trong các văn bản Phật giáo. Ví dụ, Thích Ca Mâu Ni Phật được cho là đã thực hành ba a tăng kỳ kiếp trước khi trở thành một vị Phật. A tăng kỳ có nghĩa là ‘không thể đếm được’.
Trong tiếng Phạn, từ “asaṃkhyeya” nghĩa đen là “vô số” trong ngữ nghĩa của “vô hạn”.
Việt Nam nằm trong số những quốc gia tôn sùng đạo Phật. Trong đó có Tam Thế Phật được thờ cúng nhiều nhất. Bởi đây là 3 bức tượng mang ý nghĩa và giá trị to lớn, đại diện cho vô lượng chư phương những vị phật. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ về Tam Thế Phật. Vậy Tam Thế Phật gồm những ai? Ý nghĩa của bức tượng này như thế nào? Tất cả những thắc mắc đó sẽ được giải thích trong nội dung bài viết này.
3 Vị Phật Tam thế gồm những ai?
Rất nhiều người Việt biết tới các vị Phật nổi tiếng tuy nhiên lại chưa biết Tam Thế Phật gồm những ai? Tam Thế Phật nếu hiểu đơn giản thì đây là 3 vị Phật. Hiểu đúng nghĩa được chia thành 2 cách. Cách thứ nhất, Thế được hiểu là thời, nên Tam Thế Phật là phật của 3 thời gồm quá khứ, hiện tại và tương lai. Mỗi vị phật đại diện cho sự vô lượng vô biên vô số chư Phật mười Phương. Trong đó, Phật A Di Đà đại diện cho quá khứ, Phật Thích Ca Mâu Ni đại diện cho hiện tại và Phật Di Lặc đại diện cho tương lai.
Cách hiểu thứ 2 thì Tam Thế Phật chữ Thế ở đây có nghĩa là thế giới. Tam Thế Phật chính là không gian vô lượng thế giới chư Phật từ đông sang tây, trái qua phải và trên xuống dưới.
Bộ tượng Tam Thế Phật gồm có 3 pho tượng giống nhau với tư thế ngồi kiết già. Tên đầy đủ của bộ tưọng là 3000 đức phật, mỗi thời 1000 vị. Hiện nay có nhiều hình thức của ba pho tượng là biểu hiện của Tam Thân Phật như Lô Xá Na Phật, Báo thân Phật, ứng thân Phật, Thiên Thai tông lấy Tỳ lô giá na phật.
Ý nghĩa Tam Thế Phật trong văn hoá phương Đông
Bộ tượng Tam Thế Phật trong dân gian còn có thói quen gọi là tượng Tam Thế. Đây là cách gọi tắt của người Việt để chỉ các vị phật của quá khứ, hiện tại và tương lai. Nếu nói tên đầy đủ của bộ tượng có rất nhiều là bộ tượng gồm 3000 đức Phật với ý nghĩa như sau:
Cầu bình an cho gia đình
Hiện nay rất nhiều chùa chiền và các hộ gia đình thờ cúng tượng Tam Thế Phật nhằm cầu mong cuộc sống bình an. Với mong muốn những vị thần sẽ che chở, phù hộ cho cả gia đình. Bởi Phật có tấm lòng từ bi và độ lượng luôn phù trợ con người trước các nguy hiểm trong đời sống.
Nhắc con người sống đúng đạo lý, sống tốt
Ngoài cầu mong cuộc sống bình an thì việc thờ cúng Tam Thế Phật còn mang ý nghĩa là lời nhắn nhủ, nói con người cần sống đúng đạo lý. Bộ tượng Tam Thế Phật hướng con người tới tương lai tốt đẹp, dựa trên những nền tảng quá khứ. Bởi mỗi bức tượng tượng trưng cho quá khứ, hiện tại và tương lai.
Thể hiện tín ngưỡng thờ Phật lâu đời
Từ rất lâu việc thờ Phật đã trở thành tín ngưỡng của người Phương Đông. Nên trong các ngôi chùa luôn luôn có tượng Phật. Cũng có khá nhiều các gia đình Việt Nam lập bàn thờ tượng Phật trong nhà. Hàng ngày tụn kinh sám hối cho nhẹ lòng thanh thản. Vì thế, chúng ta dễ dàng nhìn thấy các bức tượng Tam Thế Phật ở các ngôi chùa lớn như chùa Bái Đính, chùa Ba Chúc, chùa Ba Vàng,….
Cách thờ tượng Tam Thế Phật tại gia
Tượng Tam Thế Phật không còn xa lạ trong các ngôi chùa. Những bức tượng ở đây có nhiều kích cỡ khác nhau để thờ cúng. Vậy trong các gia đình thì việc thờ tượng Tam Thế Phật như thế nào? Việc lập bàn thờ có ý nghĩa quan trọng, thế nên, nếu bạn có ý định thờ tượng Tam Thế Phật trong nhà cần chú ý các điều sau:
Đặt bàn thờ tượng Tam Thế Phật cần hướng ra phía cửa chính ngôi nhà. Điều này sẽ giúp các vị Phật nhìn rõ các thành viên trong gia đình và chúng sinh trong cảnh giới vô thức (tức người đã mất trong gia đình). Phật phải ở vị trí trên cao để chúng ta nhìn lên, không được đặt tượng Phật thấp hơn tầm mắt. Không được đặt bàn thờ phật hướng đối diện nhà bếp, phòng ngủ, nhà vệ sinh, nơi ẩm thấp, nhà tắm, góc cầu thang. Bạn cần chắc chắn bàn thờ trang nghiêm và vững chãi.
Khi thờ tượng Tam Thế Phật không thờ chung với thần thánh. Vì thực thế thần thánh vẫn nằm trong lục đạo luân hồi, chưa giác ngộ hoàn toàn. Nếu bạn thờ chung thì đây phạm vào điều cấm kỵ thờ phật tại gia.
Bàn thờ tượng Tam Thế Phật cần lập ở cao, ít nhất là từ đầu chủ nhà trở lên. Đồ thờ cúng chỉ dùng hoa quả cúng bái, đĩa đựng trái cây sẽ đặt riêng và không dùng chung với việc khác kể cả dùng cho bàn thờ gia tiên. Không được cúng đồ mặn hoặc đốt vàng mã ở bàn thờ Phật.
Lưu ý đặt bàn thờ gia tiên bên trái hoặc bên phải bàn thờ Phật. Vì Phật là thầy của mọi chúng sinh ở 10 phương 3 cõi.
Ngày thượng an vị cho Phật sẽ vào ngày mùng 1 hoặc ngày rằm.
Một số sản phẩm về Tam Thế Phật phổ biến hiện nay
Hiện nay các sản phẩm về Tam Thế Phật có nhiều mẫu mã và chất liệu đa dạng. Điều này làm nên màu sắc đẹp cho bộ tượng Tam Thế Phật. Mỗi sản phẩm đều mang ý nghĩa và dùng trong nhiều mục đích khác nhau. Cụ thể một số sản phẩm Tam Thế Phật phổ biến như sau:
Tranh Tam Thế Phật
Tranh Tam Thế Phật được vẽ trên nhiều chất liệu khác nhau như giấy, vải, mạ đồng. Màu sắc các bức tranh đa dạng tạo nên sự phong phú trong từng sản phẩm. Đây cũng là ưu điểm giúp người tiêu dùng dễ dàng lựa chọn sản phẩm đúng nhu cầu sử dụng. Những bức tranh Tam Thế Phật thường được treo ở trong chùa và gia đình. Người ta thường treo tranh ở khu vực thờ cúng linh thiêng với mong muốn tốt đẹp.
Tượng Tam Thế Phật đứng bằng đồng
Bộ tượng Tam Thế Phật đứng trên thị trường có nhiều kích cỡ khác nhau. Tuỳ vào mục đích sử dụng mà người ta chọn bộ tượng kích thước tương ứng. Có bộ tượng cỡ nhỏ, cỡ vừa và cỡ to. Ngoài ra, nhiều đơn vị còn nhận đúc tượng theo kích thước yêu cầu của khách hàng.
Tượng Tam Thế Phật thường dùng để bố trí trên bàn thờ, đặt ở các ngôi chùa, hoặc để trên xe ô tô. Chất liệu để làm tượng cũng đa dạng, tuy nhiên người ta thường chọn chất liệu bằng đồng. Bởi đây là nguyên liệu cao cấp, độ bền và màu sắc đẹp hợp với ý nghĩa bộ tượng.
Tượng Tam Thế Phật ngồi bằng đồng
Bộ tượng Tam Thế Phật ngồi ngược lại với bộ tượng đứng. Thay vì đứng bức tượng được chế tác 3 vị Phật ngồi kiết già trên đài sen. Khuôn mặt toát lên vẻ thanh tịnh uy nghiêm. Khi nhìn vào bức tượng ta thấy mình thật nhỏ bé trước Phật Pháp nhưng cũng đầy một lòng thành kính.
Sản phẩm có nhiều kích thước khác nhau. Tuỳ từng mục đích sử dụng mà con người lựa chọn sản phẩm phù hợp. Bộ tượng thường đặt ở trong các ngôi chùa, trưng bày ở phật đường, đặt ở trên xe, bàn thờ gia tiên.
Bộ tượng Tam Thế Phật ngồi ngược lại với bộ tượng đứng. Thay vì đứng bức tượng được chế tác 3 vị Phật ngồi kiết già trên đài sen. Khuôn mặt toát lên vẻ thanh tịnh uy nghiêm. Khi nhìn vào bức tượng ta thấy mình thật nhỏ bé trước Phật Pháp nhưng cũng đầy một lòng thành kính.
Sản phẩm có nhiều kích thước khác nhau. Tuỳ từng mục đích sử dụng mà con người lựa chọn sản phẩm phù hợp. Bộ tượng thường đặt ở trong các ngôi chùa, trưng bày ở phật đường, đặt ở trên xe, bàn thờ gia tiên.
HOA NGHIÊM TAM THÁNH
Ở giữa là tượng Phật Thích Ca Mầu Ni hay Phật Tổ Như Lai còn gọi là tượng Hoa Nghiêm. Hai bên là Nhị vị Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền– được coi như là hai hiệp sĩ của đức Phật Thích Ca Mầu Ni. Ngài Văn Thù cưỡi sư tử xanh hầu ở bên trái đức Như Lai, ngài Phổ Hiền cưỡi voi trắng hầu ở bên phải. Nhị vị Bồ Tát này là hai bậc thượng thủ của hết thảy hàng Bồ Tát, thường giúp đỡ, tuyên dương cho việc giáo hóa chúng sinh của đức Phật Như Lai.
Đức hạnh tối diệu, trí huệ viên dung, Bồ Tát Phổ Hiền và Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là hai vị Bồ Tát hộ vệ cho Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, phù trợ Ngài trong những buổi hoằng pháp, hội vi tế hay hội cúng dường. Hai vị thượng thủ giúp vào việc giáo hóa của Đức Phật theo ba ý nghĩa:
Bồ Tát Phổ Hiền dùng Pháp Giới môn nên gọi là Sở nhập, Bồ Tát Văn Thù dùng Bát Nhã môn nên gọi là Năng nhập
Bồ Tát Phổ Hiền tự tại về Tam Muội (Định), Bồ Tát Văn Thù tự tại về Bát Nhã (Tuệ)
Bồ Tát Phổ Hiền biểu minh ý nghĩa Quảng đại, Bồ Tát Văn Thù biểu minh ý nghĩa Thậm thâm. Thâm (sâu), Quảng (rộng) thành một đôi đi liền với nhau như vậy.
Phổ Hiền (Phạn danh là Samantabhadra, Tam-mạn-bạt-đà-la) hay Visvabhadra (Bật-luân-bạt-đà): Phổ là tỏa ra khắp nơi, Hiền là Đức hạnh, hiền thiện. Phổ Hiền tượng trưng cho đức hạnh tối diệu. Ngài được biết đến với Mười đại nguyện về đức hạnh và quyết tâm cứu độ hết thảy chúng sinh. Trong Mật giáo, Ngài có biệt hiệu là Phổ Nhiếp Kim Cang, Chân Như Kim Cang, tùy theo từng hội mà hình tượng Ngài mang vẻ khác nhau. Hội Vi tế thì Ngài tay trái Ngài nắm lại, đặt ngang hông, tay phải cầm kiếm bén. Ở hội Cúng dường thì hai tay Ngài nắm hoa sen, đặt trước ngực, phía trên hoa sen có kiếm bén. Có nơi Ngài được họa với thân màu bạch nhục, đầu đội mũ ngũ Phật, tay trái cầm hoa sen, trên hoa sen có kiếm bén, lửa cháy chung quanh kiếm, tay phải duỗi ra, ngón vô danh và ngón út gập lại. Ngoài ra còn có phép tu Phổ Hiền diên mạng để cầu được trường thọ.
Văn Thù (Phạn danh là Manjusri, Văn Thù Sư Lợi): Hán dịch là Diệu Đức, Diệu Cát Tường...Tương truyền Ngài là Thái tử con thứ ba của vua Vô Tránh Niệm thời quá khứ, có tên là Vương Chúng. Có chỗ bảo rằng trong quá khứ, Ngài phát Mười tám đại nguyện để trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật và cứu độ chúng sinh. Được Phật Bảo Tạng thọ ký sẽ thành Phật, hiệu Phổ Hiện Như Lai (Kinh Pháp Hoa quyển 9, Kinh Đại Bảo Tích quyển 60). Ngài xuất hiện trong các Kinh Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy-ma-cật… được xem là vị trí tuệ bậc nhất trong hàng Bồ tát, thường thay Phật nói pháp, điều động hội chúng, tán thán Đức Phật sau các đoạn giảng. Ngài được họa tượng ngồi trên đài sen, đầu có năm nhục kế, tay phải cầm kiếm đang bốc lửa đưa khỏi đầu, biểu hiệu kiếm trí tuệ chặt đứt xiềng xích vô minh, phiền não, đưa đến trí tuệ viên mãn; tay trái cầm hoa sen xanh hoặc cầm kinh Phật, biểu hiệu trí tuệ sáng suốt, tinh ròng, không ô nhiễm.
Sách Thám Huyền Ký quyển 18 ghi: “Trong các vị ấy, có hai vị thượng thủ giúp vào việc giáo hóa của Đức Phật theo ba ý nghĩa: 1) Phổ Hiền dùng Pháp giới môn nên gọi là Sở nhập, Văn Thù dùng Bát nhã môn nên gọi là Năng nhập, 2) Phổ Hiền tự tại về Tam-muội (Định), Văn Thù tự tại về Bát nhã (Tuệ), 3) Phổ Hiền biểu minh ý nghĩa Quảng đại, Văn Thù biểu minh ý nghĩa Thậm thâm. Thâm (sâu), Quảng (rộng) một đôi vậy”. Một cách khái quát, Phổ Hiền tượng trưng cho Lý và Hạnh, Văn-thù tượng trưng cho Trí và Chứng.
Bồ Tát Phổ Hiền biểu minh ý nghĩa Quảng đại, Bồ Tát Văn Thù biểu minh ý nghĩa Thậm thâm. Thâm (sâu), Quảng (rộng) thành một đôi đi liền với nhau như vậy.
Phổ Hiền (Phạn danh là Samantabhadra, Tam-mạn-bạt-đà-la) hay Visvabhadra (Bật-luân-bạt-đà): Phổ là tỏa ra khắp nơi, Hiền là Đức hạnh, hiền thiện. Phổ Hiền tượng trưng cho đức hạnh tối diệu. Ngài được biết đến với Mười đại nguyện về đức hạnh và quyết tâm cứu độ hết thảy chúng sinh. Trong Mật giáo, Ngài có biệt hiệu là Phổ Nhiếp Kim Cang, Chân Như Kim Cang, tùy theo từng hội mà hình tượng Ngài mang vẻ khác nhau. Hội Vi tế thì Ngài tay trái Ngài nắm lại, đặt ngang hông, tay phải cầm kiếm bén. Ở hội Cúng dường thì hai tay Ngài nắm hoa sen, đặt trước ngực, phía trên hoa sen có kiếm bén. Có nơi Ngài được họa với thân màu bạch nhục, đầu đội mũ ngũ Phật, tay trái cầm hoa sen, trên hoa sen có kiếm bén, lửa cháy chung quanh kiếm, tay phải duỗi ra, ngón vô danh và ngón út gập lại. Ngoài ra còn có phép tu Phổ Hiền diên mạng để cầu được trường thọ.
Văn Thù (Phạn danh là Manjusri, Văn Thù Sư Lợi): Hán dịch là Diệu Đức, Diệu Cát Tường...Tương truyền Ngài là Thái tử con thứ ba của vua Vô Tránh Niệm thời quá khứ, có tên là Vương Chúng. Có chỗ bảo rằng trong quá khứ, Ngài phát Mười tám đại nguyện để trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật và cứu độ chúng sinh. Được Phật Bảo Tạng thọ ký sẽ thành Phật, hiệu Phổ Hiện Như Lai (Kinh Pháp Hoa quyển 9, Kinh Đại Bảo Tích quyển 60). Ngài xuất hiện trong các Kinh Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy-ma-cật… được xem là vị trí tuệ bậc nhất trong hàng Bồ tát, thường thay Phật nói pháp, điều động hội chúng, tán thán Đức Phật sau các đoạn giảng. Ngài được họa tượng ngồi trên đài sen, đầu có năm nhục kế, tay phải cầm kiếm đang bốc lửa đưa khỏi đầu, biểu hiệu kiếm trí tuệ chặt đứt xiềng xích vô minh, phiền não, đưa đến trí tuệ viên mãn; tay trái cầm hoa sen xanh hoặc cầm kinh Phật, biểu hiệu trí tuệ sáng suốt, tinh ròng, không ô nhiễm.
Sách Thám Huyền Ký quyển 18 ghi: “Trong các vị ấy, có hai vị thượng thủ giúp vào việc giáo hóa của Đức Phật theo ba ý nghĩa: 1) Phổ Hiền dùng Pháp giới môn nên gọi là Sở nhập, Văn Thù dùng Bát nhã môn nên gọi là Năng nhập, 2) Phổ Hiền tự tại về Tam-muội (Định), Văn Thù tự tại về Bát nhã (Tuệ), 3) Phổ Hiền biểu minh ý nghĩa Quảng đại, Văn Thù biểu minh ý nghĩa Thậm thâm. Thâm (sâu), Quảng (rộng) một đôi vậy”. Một cách khái quát, Phổ Hiền tượng trưng cho Lý và Hạnh, Văn-thù tượng trưng cho Trí và Chứng.
TÂY PHƯƠNG TAM THÁNH
(DI ĐÀ TAM TÔN)
Tượng vẽ Đức Phật A Di Đà đứng giữa, trên tòa sen lớn, hai bên có hai vị Bồ tát đứng trên hai tòa sen nhỏ hơn (có khi vẽ cả ba vị đều ngồi) là Quán Thế Âm (bên trái) và Đại Thế Chí (bên phải). Cũng tương tự như trường hợp hai Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền; Bồ tát Quán Thế Âm tượng trưng cho Bi, Bồ tát Đại Thế Chí tượng trưng cho Trí. Cả hai vị này hộ trì Đức Phật A Di Đà giáo hóa và dẫn đạo chúng sinh về cõi Tịnh độ Cực lạc.
Quán Thế Âm (Phạn danh là Avalokitesvara): Tương truyền trong quá khứ Ngài là Thái tử Bất Huyền, con vua Vô Tránh Niệm, nguyện cứu độ hết thảy chúng sinh nên được Đức Bảo Tạng Như Lai đặt tên là Quán Thế Âm và được thọ ký sẽ thành Phật. Quán là trí. Âm là bi. Quán Thế Âm là nghe âm thanh kêu than khổ của chúng sinh mà đến cứu giúp. Ngài xuất hiện trong Kinh Pháp Hoa, Thủ Lăng Nghiêm… dưới hình thức nam giới. Tại Trung Quốc, từ thế kỷ X, Ngài được vẽ hình là nữ giới, tượng trưng sự yêu thương của người mẹ. Từ đó tín ngưỡng Quán Thế Âm trở nên rộng rãi lan dần khắp nhiều nơi trên thế giới. Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn nêu rõ về các đại nguyện cứu độ chúng sinh của Ngài và theo thời gian, ảnh tượng Ngài được tô tạo thành nghìn tay nghìn mắt, hoặc cầm cành dương, bình cam lồ hoặc cưỡi rồng… Ngài có hàng chục hóa thân để tùy cơ duyên cứu độ: Phật, Bồ- tát, Phạm Vương, Đế Thích, A-tu-la, Thiên Long, Dạ-xoa, Tỳ kheo, Tăng, Ni, Tể tướng, Cư sĩ… Án ma ni bát-mê hồng (Om mani Padme Hum) là một chân ngôn thuộc tính của Ngài, Đại bi tâm Đà-la-ni là bài chú nói về công đức của Ngài. Theo Mật giáo, Ngài là thị giả của Đức Phật A-di-đà nhưng về mặt bản giác, Ngài chính là Đức A Di Đà.
Đại Thế Chí: (Phạn danh là Mahasthamaprapta): Ngài là vị Bồ tát dùng ánh sáng trí tuệ đại diện cho Đức Phật A Di Đà quán chiếu tất cả, khiến chúng sinh lìa khổ. Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, phẩm Niệm Phật viên thông, Ngài tu hành, nhất tâm niệm Phật mà đắc Vô sinh Pháp nhẫn, nguyện dẫn dắt chúng sinh cõi Ta bà về Tây phương Tịnh độ. Kinh Bi Hoa quyển ba chép rằng Ngài sẽ thay Đức Phật A Di Đà, rồi thay Đức Quán Thế Âm mà cứu độ chúng sinh. Trong Mật giáo, Ngài là vị thứ hai trong viện Quan Âm, ngồi trên hoa sen đỏ, thân màu trắng, tay trái cầm hoa sen mới nở, tay phải co ba ngón giữa, đặt trước ngực. Mật hiệu của Ngài là Trì Luân Kim Cang.
3. Tam thánh còn được dùng để chỉ cho ba hàng chứng đắc thần thông thuộc ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát
Trong giới đàn Viên đốn, Tam thánh gồm Phật Thích Ca làm Hòa thượng , Bồ tát Văn-thù làm Yết-ma A-xà-lê, Bồ-tát Di Lặc làm Giáo thọ A-xà-lê. Tông Thiên Thai của Nhật Bản tôn xưng ba Đại sư Truyền giáo, Từ Giác, Trí Chúng là Tam thánh.
Việc thờ tượng Tam thánh Thích Ca, Di Đà là rất quan trọng, nhằm tăng trưởng niềm tin kính Phật và quan trọng nhất là thúc đẩy các Phật tử tu học, thực hành theo Phật pháp, đặc biệt là về đức hạnh và trí tuệ chứ không phải chỉ mong được phù hộ, ban ơn phước.
Ý nghĩa tượng Tây Phương Tam Thánh :
+ Tượng Phật A Di Đà: Có dáng đứng hoặc ngồi trên đài sen lớn. Ngài là vị Đức Phật vô lượng thọ, hào quang chói khắp muôn nơi. Đưa chúng sinh thoát khỏi những khổ cực, muộn. Thức tỉnh, nhận ra những chân lý của sự khổ đau để hướng về nhất tâm, những điều thiện lành trong cuộc sống.
+ Tượng Phật Bồ Tát Quán Thế Âm: Có dáng đứng hoặc ngồi trên đài sen lớn với tay phải cầm nhành dương liễu (tượng trưng cho đức nhẫn nhục), tay trái cầm bình thanh tịnh (tượng trưng cho lòng từ bi). Hình ảnh của Phật Bà Quan Âm hiện lên như là một cách răn dạy nhân thế sống lương thiện, tránh xa những điều sai trái. Phật Bà khiến tâm tính chúng sinh trở nên thanh tịnh, từ bi, hướng tới những điều tốt đẹp. Cứu vớt những người gặp nạn, mang tới sự may mắn trong cuộc sống, yên vui cho gia đạo.
+ Tượng Phật Bồ Tát Đại Thế Chí: Có dáng đứng hoặc dáng ngồi đài sen lớn với nhành hoa sen trên tay. Ngài là tiêu biểu cho ý chí nghị lực, trí tuệ siêu việt, soi sáng để hóa độ chúng sinh rời xa cõi ác, bề khổ, mang lại những điều tốt lành, may mắn trong cuộc sống.
Việc thờ tượng Tây Phương Tam Thánh không đơn thuần là cầu mong sự phù hộ, ban ơn, mà điều cốt lõi là niềm tin vào cửa Phật, tin kính Phật. Đồng thời, thúc đẩy các Phật tử tu học theo Phật pháp, phát triển về đức hạnh và trí tuệ, hướng tới nhất tâm.
Cách thờ tượng Tam Thánh Tây Phương tại gia
- Bàn thờ Phật và bàn thờ gia tiên thường được thiết trí trong phòng thờ với quy cách "thượng Phật, hạ linh" (bàn thờ Phật ở trên, bàn thờ gia tiên ở dưới) hay "tiền Phật, hậu linh" (bàn thờ Phật ở phía trước - cao hơn, bàn thờ gia tiên ở phía sau - thấp hơn).
- Khi thờ Tây phương Tam Thánh, tượng Phật A Di Đà đứng ở giữa, tượng Bồ-tát Ðại Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh (tượng trưng cho trí tuệ) đứng bên tay phải Phật A Di Ðà, tượng Bồ-tát Quán Thế Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy (tượng trưng cho từ bi) đứng bên tay trái Phật A Di Đà.
- Trên bàn thờ Phật và gia tiên còn có lư hương, chân đèn, bình hoa, đĩa quả, ba chén nước. Hàng ngày cần thay nước, thắp hương cúng dường và quét dọn bàn thờ luôn sạch sẽ, trang nghiêm. Bạn nên đến chùa thỉnh chư vị Tăng (Ni) đến làm lễ an vị Phật cho bạn. Nếu chưa đủ duyên để thỉnh Tăng thì bạn có thể tự làm lễ an vị Phật cho gia đình của mình.
Tây Phương Tam Thánh 西方三聖
Trong thiền môn, bức tranh vẽ “Tây Phương Tam Thánh” Bồ Tát Ðại Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh đứng bên tay phải Ðức Phật A Di Ðà, bên tay trái là Bồ Tát Quán Thế Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy. Trong kinh sách hai vị Bồ Tát hiện thân cư sĩ nữ hai bên Ðức Phật A Di Ðà tượng trưng Từ Bi và Trí Tuệ.
Hình tượng Phật A-Di-Đà
Đức Phật A Di Đà xưa phát 48 lời nguyện lớn, trong đó có lời nguyện sẵn sàng tiếp dẫn chúng sanh nào niệm danh hiệu của Ngài. Dù người ấy chỉ niệm mười câu danh hiệu Ngài, Ngài cũng tiếp dẫn vãng sanh về cõi Cực-lạc. Tượng đứng trên hoa sen,mắt Ngài nhìn xuống, tay trái bắt ấn cam lồ và đưa lên ngang vai, tay mặt duỗi xuống như sẵn sàng chờ đợi cứu vớt những chúng sanh đang đắm chìm trong bể khổ. Theo trong mật giáo giải thích: tay mặt Phật đưa lên biểu thị tứ thánh (Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật), tay trái duỗi xuống biểu thị lục phàm (Thiên, nhơn, A-tu-la, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục). Nghĩa là Ngài sẵn sàng tiếp độ lục phàm đưa lên quả vị tứ thánh.
Hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm
Bồ-tát Quán Thế Âm tu hạnh từ bi, thường cứu khổ chúng sanh, nên người ta thường xưng tán Ngài là Đại từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát. Hạnh đại từ bi của Ngài là lúc nào cũng an ủi, nhắc nhở, khuyên lơn, đem lại nguồn an vui cho tất cả chúng sanh. Ở đâu có tiếng than, có nỗi khổ, Ngài đều đến để cứu vớt. Bồ-tát Quán Thế Âm tay trái cầm bình cam lồ, tay phải cầm cành dương liễu. Kinh Phổ Môn có câu “Nam-mô thanh tịnh bình thùy dương liễu Quan Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện”. “Thanh tịnh bình” là bình thanh tịnh, “thùy dương liễu” là cành dương liễu rủ xuống, “Quan Âm Như Lai cam lồ sái tâm” là nước cam lồ của đức Quan Âm rưới lên tâm. Ý nghĩa nguyên câu ấy là bình thanh tịnh đựng nước cam lồ, nhờ cành dương liễu rưới khắp làm cho tâm người được mát mẻ. Bình thanh tịnh là giới đức. Như Phật tử giữ năm giới, nhờ giữ giới mà trong sạch thanh tịnh. Cành dương liễu yếu mềm dẽo dai nên khó gãy, gió chiều nào nó lay theo chiều đó nhưng không gãy. Những cành cây cứng gặp gió mạnh nó dễ gãy. Như vậy cành dương liễu biểu trưng cho đức nhẫn nhục. Muốn đem lòng từ bi ban rải cho chúng sanh được an vui mà thiếu đức nhẫn nhục thì lòng từ bi khó thực hiện được.
Hình tượng Bồ tát Đại Thế Chí
Bồ Tát Ðại Thế Chí biểu trưng cho đức tinh tấn và ánh sáng trí tuệ. Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại vượt thoát khỏi bùn nhơ, thành tựu trí tuệ. Màu xanh của hoa sen tỏa ánh sáng xanh trên cõi trời tây phương tịnh độ, và còn là sức mạnh tinh tấn của chánh định, là trí tuệ siêu việt như trời biển tĩnh lặng rộng lớn bao la bát ngát. Danh hiệu của Bồ Tát Đại Thế Chí nói lên hạnh nguyện đại hùng, đại lực, đại tinh tấn và ánh sáng trí tuệ vô biên chiếu khắp mọi loài chúng sanh, có thể phá trừ vô minh, điều phục tham sân si, chuyển hóa phiền não thành bồ đề.
Trong chú Đại bi, câu Ta bà ha rất là quan trọng. Câu này được lặp lại đến mười bốn lần.
Ta bà ha. Hán dịch có sáu nghĩa. Bất kỳ chữ này xuất hiện ở bài chú nào cũng có đủ sáu nghĩa này.
Nghĩa thứ nhất là “thành tựu”.
Khi trì niệm câu chú này, tất cả sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được thành tựu. Nếu quý vị chưa có được sự cảm ứng khi hành trì, là do vì tâm chưa đạt đến sự chí thành. Nếu quý vị có tâm chí thành và có niềm tin kiên cố, thì chắc chắn sẽ được thành tựu. Nhưng chỉ cần móng khởi một chút tâm niệm không tin vào chú này, thì không bao giờ được thành tựu.
Nghĩa thứ hai là “Cát tường”.
Khi hành giả niệm câu chú này thì mọi sự không tốt lành, đều trở thành tốt lành như ý. Nhưng quý vị phải có lòng thành tín. Nếu quý vị có lòng thành tín hoặc nửa tin nửa ngờ khi trì chú này thì chư Bồ tát đều biết rõ. Vì thế nếu quý vị muốn mọi việc đều được đến chỗ thành tựu thì trước hết phải có niềm tin chắc thật. Ví như khi cha của quý vị có bệnh, muốn cha mình được khỏi bệnh thì quý vị phải hết sức thành tâm và chánh tín để trì tụng chú này mới có cảm ứng.
Hoặc khi quý vị nghĩ rằng: “Từ lâu mình chưa được gặp người bạn thân. Nay rất muốn gặp anh ta”. Quý vị niệm chú này một cách chí thành, liền gặp bạn ngay. Hoặc quý vị nghĩ: “Ta chẳng có người bạn nào cả, muốn có người bạn tốt”. Quý vị trì chú này một cách thành tâm và liên tục, liền có được bạn lành, ngay cả gặp được thiện tri thức.
Nghĩa thứ ba của Ta bà ha là “viên tịch”.
Khi các vị Tỳ kheo xả bỏ báo thân hoặc nhập Niết bàn thì được gọi là “viên tịch”. Nhưng ở đây, chữ “viên tịch” không có nghĩa là chết. Chẳng phải niệm câu chú Ta bà ha là để cầu sự viên tịch. Thế thì công dụng của câu chú này là gì?
“Viên tịch” có nghĩa là “công vô bất viên”. Là công đức của hành giả hoàn toàn viên mãn; “đức vô bất tịch” là đức hạnh của hành giả đạt đến mức cao tột cực điểm. Chỉ có chư Phật và Bồ tát mới biết được công hạnh rốt ráo tròn đầy ấy chứ hàng phàm phu không suy lường được.
Nghĩa thứ tư là “tức tai”, nghĩa là mọi tai nạn đều được tiêu trừ.
Nghĩa thứ năm là “tăng ích”, là sự tăng trưởng lợi lạc của hành giả. Khi niệm câu Ta bà ha thì công hạnh đều được tăng trưởng, hành giả sẽ đạt được chỗ lợi lạc an vui.
Nghĩa thứ sáu của câu này, tôi thiết nghĩ trong quý vị ít có ai biết được. Vì trước đây tôi chưa từng nói bao giờ.
Ta bà hà có nghĩa là “vô trú”. Nghĩa “vô trú” này nằm trong ý nghĩa của câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cang.
“Vô trú” nghĩa là không chấp trước, không vướng mắc hay bám chấp một thứ gì cả.
Tâm vô trú là không có một niệm chấp trước vào việc gì cả. Không chấp trước nghĩa là tâm tùy thuận với mọi việc, thấy mọi việc đều là tốt đẹp. Đây chính là trường hợp: “Vô vi nhi vô bất vi” (không khởi niệm tác ý nhưng điều gì cũng được thành tựu). Vô trú chính là vô vi theo nghĩa ở trên, và vô vi chính là vô trú.
Khi quý vị vừa móng khởi lên một niệm tưởng, đừng nên vướng mắc vào một thứ gì cả, đó là nghĩa thứ sáu của Ta bà ha. Quý vị đừng nên trụ vào các niệm tham, sân, si, mạn, nghi. Nếu quý vị có tất cả các tâm niệm trên thì phải nhanh chóng hàng phục chúng, chuyển hóa chúng để tâm mình không còn trụ ở một niệm nào cả. Hàng phục, chuyển hóa được những tâm niệm chúng sinh ấy gọi là vô trú. Dùng cái gì để chinh phục chúng? Dùng Bảo kiếm ấn pháp này để hàng phục. Quý vị nói rằng tâm quý vị bị đầy dẫy niệm tham chế ngự. Tôi sẽ dùng Bảo kiếm này để cắt sạch. Nếu tâm quý vị có đầy ma oán, tôi cũng sẽ dùng Bảo kiếm này đuổi sạch. Nếu tâm quý vị bị ma si mê chiếm đoạt, tôi sẽ dùng kiếm trí tuệ này chặt đứt chúng từng mảnh.
Tôi sẽ chặt đứt tất cả các loài ma ấy bằng Bảo kiếm Kim cang vương này, tức là dùng kiếm Trí tuệ để hàng phục. Nếu quý vị muốn hàng phục thiên ma ngoại đạo thì trước hết quý vị phải chuyển hóa được mọi vọng tưởng của mình. Khi quý vị chuyển hóa được vọng tưởng trong tâm mình, thì thiên ma ngoại đạo cũng được hàng phục luôn, cho dù chúng có muốn đến để quấy phá, chúng cũng chẳng tìm được cách nào để hãm hại được cả.
Trên đây là sáu nghĩa của Ta bà ha. Bất luận câu chú nào có chữ Ta bà ha đều mang đầy đủ sáu nghĩa trên.
TRÍCH DẪN VỀ CÕI TA BÀ :
Chương VI
Cõi Ta-bà: Sống, Chết và Tái sinh
Cõi ta-bà(tr. 157)
Ta-bà tượng trưng chu kỳ của sự hiệnhữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp(karma).Đấy làchiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu.
Bám víu vào sự sốnglà một sự hão huyền(tr. 157)
Thật hoài công khi muốn bám víu vàosự hiện hữu này, dù sống đến trăm tuổi ta cũng phải chết một ngày nào đó. Hơn nữagiây phút ra đi không thể biết trước được, nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Dù làngười giàu có, dù được những người chung quanh chăm sóc, sự sống này sớmmuộn cũngchấm dứt, không cứu vãn được. Của cải chẳng giúp được gì, cái chết của một ngườitỉ phú không khác cái chết của một con thú hoang.
Vô thường(tr. 157)
Trong chu kỳ hiện hữu,trên dòng nối tiếp bất tận của vô số kiếp tái sinh và trong khoảng thời gian củamỗi kiếp, bất thần tất cả vụt biến đổi. Tuy không có gì báo trước, thế nhưng hìnhnhư tất cả bỗng nhiên được tháo gỡ, địa vị xã hội sụp đổ, đoàn tụ trở thànhchia ly, sự sống trở thành cái chết. Hạnh phúc trôi nhanh. Tất cả những gì thuộcsở hữu của ta trở nên vô thường. Tấtcả những gì trước đây ta xem là thật cũng chỉ là vô thường.
Sân khấu của vô thường(tr. 157)
Tái sinh không phải là mộtcách tránh né cái chết. Trái lại, mỗi chúng ta trong từng ngày nhích lạigần hơnvới cái chết, tương tợ như những con vật được đưa đến lò sát sinh. Trongvũ trụnày, bất cứ gì đều bị chi phối bởi quy luật vô thường và sẽ tan rã. NgàiĐạt-laiLạt-ma thứ VII có nói như sau : "Những người còn trẻ, cường tráng và khoẻmạnh nhưng chết sớm chính là những vị thầy thuyết giảng cho chúng ta về vô thường.Vô thường tương tợ như một sân khấu, sau một màn trình diễn các diễn viên trở vàohậu trường thay y phục và sau đó lại trở ra ".
Nguồn gốc của sự sống hiện tại và tương lai(tr. 158)
Kinh sách Phật giáo giảngrằng tâm thức (esprit - spirit) không có khởi thủy, do dó sự tái sinh cũngkhông có khởi thủy. Phân tích cẩn thận và nghiêm túc sẽ thấy rằng tri thức(conscience - consciousness) không hề là nguyên nhân thực thể của vật chất, ngượclại vật chất cũng không phải là nguyên nhân thực thể của tri thức. Giả thuyếtduy nhất có thể chấp nhận được là nguyên nhân của tri thức là một tri thức khácđã có từ truớc. Đấy là một cách chứng minh và giải thích nguồn gốc của sự sống trongquá khứ và tương lai [sự tiếp nối của sự sống].
Tái sinh làm người là một sự quý hiếm(tr. 158)
Hãy tưởng tượng một cáiách [dùng cho bò kéo cày]bằng gỗ nạm vàng trôidạt trong một đại dương mênh mông. Có một con rùa già mù lòa sống trong đáy đạidương, cứ cách một trăm năm lại nổi lên mặt nước để thở một lần. Vậy thìcơ maykhiến con rùa chui đầu vào cái ách bằng vàng ấy là bao nhiêu? Đức Phật giảng rằngđược tái sinh dưới thể dạng con người cũng hiếm hoi như thế. [cái ách nạm vàng thật quý giá tượng trưng cho sự tái sinh làmngười, thế nhưng đồng thời nó cũng tượng trưng cho sự trói buộc và nhọc nhằn].
Tái sinh và đầu thai(tr. 158)
Chư Phật bảo rằng táisinh là một sự thật. Chính thế, đây là một sự thật hiển nhiên. Chúng ta tin rằngcó một thứ tri thức (conciuosness) thật tinh tế làm nguồn gốc phát sinh ra đủ mọithứ mà chúng ta gọi là sự sáng tạo. Tri thức tinh tế ấy hiện hữu trong mỗi cáthể từ lúc khởi thủy tiếp tục cho đến khi đạt được Phật tính. Đấy là gì mà ngườita gọi là sự "hiện hữu" (être - being). Nó có thể mang nhiều hình tướngkhác nhau, chẳng hạn như một con thú, một con người hoặc cũng có thể là một vịPhật. Đấy là nguyêntắc căn bản của giả thuyết tái sinh.
Theo dòng thời gian từ thế kỷ nàysang thế kỷ khác, tâm thức tinh tế chuyển đổi từ hình tướng này sang hình tướngkhác và tìm cách đạt được Phật tính. Nếutái sinh là một sự bắt buộc, đầu thai là một sự chọn lựa. Quyền được chọn lựa dànhriêng cho một số cá thể xứng đáng, chủ động được sự tái sinh của mình trong tươnglai, đấy là trường hợp của chư Phật và một số người khác nữa.
Khi tâm thức đạt được mộtcấp bậc phẩmtính nào đó mà chúng ta gọi là tri thức tinh tế, tâm thức không còn chếtnữa, ítnhất là theo ý nghĩa thông thường của chữ này. Tâm thức đó hàm chứa khả năng giúpnó có thể chọn lựa một thân xác khác để đầu thai. Đấy là trường hợp đặc biệt củacác vị bồ-tát (boddhisattva). Dù đangđứng ở ngưỡng cửa của niết-bàn(nirvana), người bồ-tát cũng không bướcvào, vì họ nhất quyết lưu lại trong cõi ta-bà tức là chu kỳ hiện hữu để giúp đỡchúng ta.
Dưới cái nhìn của chúng tôi [những người Phật giáo],tái sinh và đầu thai là một điềuhiển nhiên, một hiện tượng vật lý, có thật như những hạt nguyên tử.
Sự chối bỏ(tr. 160)
Tất cả mọi cảm nhận - thích thú hayhạnh phúc trong chu kỳ hiện hữu - dù mãnh liệt hay tuyệt vời đến đâu đềuchấm dứtmột cách thảm thương. Hãy nghĩ đến bản chất hư ảo của chúng để hiểu rằngnên chấmdứt ngay cái vòng lẩn quẩn đó, dù cố gắng tiếp tục thêm cũng chẳng lợi ích gì.Vì thế hãy phát động trong lòng sự ghê tởm sâu xa về chuỗi dài thử tháchđó [tức chu kỳ hiện hữu] và quyết tâm từ bỏ nó. Vậy chúngta thử tìm hiểu thật chính xác xem đâu là nguyên nhân mang lại các nỗi khốn khổvà đớn đau ấy.
Sự tin tưởng do bảnnăng về một cái tôi độc lập(tr. 160)
Khổ đau không phải vô cớ xảy ra, thếnhưng nó cũng không phải là tác phẩm của một vị Trời toàn năng nào cả. Đấy là sảnphẩm phát sinh từ những lầm lẫn và những hành động thúc đẩy bởi các thể dạngtâm thức không chủ động được của chính mình. Nguyên nhân trước hết của khổ đaulà vô minh, đấy là sự hiểu biết sai lạc về bản chất của mọi hiện tượng, tự xemmình hiện hữu một cách tự tại. Vô minh phóng đại cương vị của các hiện tượng vàtạo ra các ranh giới phân biệt ta với người khác. Tự xem mình quý giá nhấttrong vũ trụ khiến ta đối xử với người khác như chính ta là một vị Phật.Trênthực tế thái độ đó chưa bao giờ mang lại hạnh phúc lâu bền.
Tính cách lừa phỉnhcủa các thể dạng bên ngoài(tr. 160)
Khi nào ý thức được các hiện tượngchỉ là sự lừa phỉnh khi đó ta mới đủ khả năng để hiểu là chúng không hàmchứa mộtsự hiện hữu tự tại nào. Sự phủ nhận đó không có nghĩa là loại bỏ một thứgì đã từnghiện hữu trước đây, đấy chỉ là cách đơn giản thừa nhận những gì chưa baogiờ hiệnhữu sẽ đương nhiên không hiện hữu. Vì lầm lẫn chúng ta xem các thể dạng bên ngoàilà thật. Thế nhưng các thể dạng bên ngoài không tương quan với bất cứ một thựcthể nào.
Ảo giác khiến ta tưởnglầm sợi giây thừng là con rắn(tr. 161)
Hãy lấy thí dụ một cuộn giây thừngvào lúc nhá nhem tối, ta tưởng lầm đấy là một con rắn. Sự nhận biết sai lầm chorằng sợi giây thừng là con rắn gây ra trong tâm thức một số phản ứng chẳng hạnnhư sự sợ hãi, sợ hãi làm phát sinh ra hành động thí dụ như tông cửa phóng chạyhoặc tìm cách giết con rắn. Tất cả các hành động ấy xảy ra chỉ vì một sựlầm lẫnnhỏ nhặt. Cũng thế chúng ta tưởng lầm thân xác và tâm thức của mình hàm chứa mộtcái tôi nào đó, từ đấy sinh ra mọi thứ sai lầm khác chẳng hạn như dục vọng, giậndữ. Từ thái độ ích kỷ tức bám víu vào một cái tôi ta phân biệt mình với ngườikhác.
Tất cả đều thuộc vàomột tổng thể(tr. 161)
Nếu một vật thể nào đó không thể phântách ra nhỏ hơn nhất định vật thể ấy mang tính cách độc lập, thế nhưng chẳng cóbất cứ gì không thể phân chia được. Bất cứ gì lệ thuộc vào các thành phần tạora nó đều được chỉ định dựa vào thể dạng tương kết giữa các thành phần ấy, và sựchỉ định ấy chỉ hiện hữu xuyên qua ý niệm của ta. Nếu như tất cả các thành phầnhiện hữu một cách cụ thể [đúng như chúng đã hiển hiệnra], hiện thực phải được xác nhận một cách minh bạch bằng các phương phápphân giải. Thí dụ, theo quy ước người ta chấp nhận sự hiện hữu của "cái tôi"biết biểu lộ vui thích và cảm nhận được đớn đau, thế nhưng khi sử dụng phép phângiải để khảo sát và tìm kiếm "cái tôi" ấy thì không thấy nó đâu cả. Dùcó xoay chiều đổi hướng phép phân giải ta cũng không thể tìm thấy "cái tôi"ở bất cứ nơi nào. Không có một tổng thể nào khác hơn các thành phần tạo ra nó,[câu này có nghĩa là không tìm thấy một thành phần nàotượng trưng cho "cái tôi" trong một tổng thể, trong số tất cả các thànhphần tạo ra một cá thể (tổng thể) con ngưởi gồm thân xác và tâm thức không tìmđược một thành phần nào gọi là "cái tôi"].
Sự tiếp nối liên tụccủa tri thức(tr. 162)
Dù thân xác chỉ là tổng hợp củanhiêu thành phần hóa học và vật lý, thế nhưng vẫn có một tác nhân tinh tế rạngngời và tinh khiết tạo ra sự sống của các sinh linh. Tác nhân ấy không mang tínhcách vật chất nên không cân đo được, thế nhưng không phải vì thế mà nó không hiệnhữu. Theo quan điểm Phật giáo, tri thức (conciousness) được hiểu là phi-vật-chất.Nhất định phải có một nguyên nhân sinh ra tri thức, nguyên nhân ấy thuộcbản thểtinh anh tạo ra sự sống, do đó tri thức cũng có cùng một bản thể với sự sống. Nếukhông có một khoảnh khắc tri thức xảy ra trước đó sẽ không có một tri thức nào xảyra tiếp theo sau, dù bất cứ dưới hình thức nào, [khinào có một khoảnh khắc tri thức xảy ra trước, sau đó mới có một khoảnh khắc trithức khác tiếp nối theo sau]. Tri thức không phát sinh từ hư vô, nó cũngkhông tan biến để trở thành hư vô. Vật chất cũng không thể trở thành trithức. Khinào hiểu được không có một sự dừng lại [chấm dứt]nào của sự tiếp nối tri thức trong một kiếp sống, khi đó ta mới nhận thấy tínhcách hợp lý (lôgic) của luận cứ cho rằng sau cái chết còn có một sự sốngkhác.[tri thức tiếp nối liên tục hết kiếp nay sang kiếpkhác không ngưng nghỉ, khái niệm đó cho thấy các kiếp sống (chết - tái sinh)thay nhau hiển hiện trên dòng tiếp nối đó, vì thế sự tiếp nối liên tục của trithức không thể đứt đoạn (ngưng nghỉ) trong một kiếp sống]
Tâm thức là gì(tr. 162)
Khảo sát cẩn thận sẽ thấytâm thức (esprit- spirit) là một thứ gì đó tương tợ như một không gian trong suốt, hoàn toàn trốngkhông, trong đó tất cả mọi sự hiển hiện đều đình chỉ [cónghĩa là tất cả mọi tư duy và xúc cảm đều là những sự hiển hiện, do đó chúng khôngphải là các thành phần tự tại của tâm thức, người ta thường lầm tưởng những sựhiển hiện ấy là "cái tôi"].
Tư duy là gì(tr. 162)
Đối với cá nhân tôi, tôi tin chắc tấtcả mọi hiện tượng trước hết đều phát sinh từ tư duy (pensée - thought) [chủ trương của học phái Duy thức].Tư duy tạo ra nhiềutác động hơn hẳn so với vật chất. Theo triết học Phật giáo, tư duy dù kỷcươnghay không đều làm phát sinh ra nghiệp (karma), nghiệp nhấtthiết ảnh hưởng đếncác yếu tố bên trong, các yếu tố này sau đó mới tác động vào các yếu tố bênngoài.
Nghiệp là gì(tr. 163)
Nghiệp(karma)có nghĩa là một"hành động". Nghiệp tác độngbằng ba cách : thân xác, ngôn từ và tâm ý [khái niệm vềba cửa ngõ trong giáo lý Phật giáo : thân, khẩu, ý]. Nghiệp tạo ra ba thứhậu quả : đạo hạnh, không đạo hạnh và trung hòa. Quá trình vận hành của nó gồmhai giai đoạn : thí dụ ta suy tính trong đầu sẽ làm một việc gì đó, đấy là một hànhđộng duy ý ; sau đó sự suy tính chuyển thành hành động trên thân xác hoặc ngôntừ, đấy là hành động thực thi đã được suy tính trước [cốtình]. Những hành động tiêu cực nhất định mang lại khổ đau, các hành độngtích cực đương nhiên mang lại tốt đẹp. Các hành động tạo nghiệp theo đuổi chúngta từ kiếp này sang kiếp khác. Tích lũy được các hành động tích cực sẽ mang lạilợi ích trong tương lai và các kiếp sống về sau, ngược lại nếu liên tiếpphạm vàonhững hành động tai hại nhất định ta sẽ phải nhận lãnh các hậu quả phát sinh từnhững hành động đó.
Quy luật nguyênnhân và hậu quả (tr. 163)
Nếu muốn biết ta đã làm những gì trướcđây chỉ cần nhìn vào thân xác ta hôm nay sẽ rõ [thânxác đó xinh đẹp, khoẻ mạnh, thông minh..., hay xấu xí, bệnh tật, đần độn...?]Nếu muốn biết sau này ta sẽ ra sao, hãy quan sát xem tâm thức ta đang vận hànhnhư thế nào.
Thích thú và đớnđau(tr. 163)
Thích thú và đớn đau là hậu quả. Bảnchất khác biệt và đa dạng của chúng cho thấy chúng lệ thuộc vào nhiều nguyên nhânkhác nhau. Vì thế muốn tìm thấy sự thích thú, ta phải tạo ra các nguyên nhân làmphát sinh ra nó, muốn lẫn tránh khổ đau ta cũng phải tìm cách loại bỏ nguyên nhânlàm phát sinh ra khổ đau. Khi một nguyên nhân mang lại khổ đau được ghi khắc trêndòng tiếp nối liên tục của tri thức, dù thù ghét khổ đau cách mấy ta cũng sẽ phảiđối đầu với nó.
Lầm lỗi kéo theo sựtrừng phạt (tr. 164)
Hậu quả của các hành độngtai hại tùythuộc vào cường độ của ảo giác làm phát sinh ra chúng. Hậu quả tương xứng vớinguyên nhân của nó. Thí dụ, tái sinh trong một cõi thấp hơn vì vi phạm vào hànhđộng sát nhân chẳng hạn, kể cả trường hợp vẫn còn giữ được thể dạng con người đinữa thì sự hiện hữu đó sẽ rất ngắn. Phạm vào hành động trộm cắp sẽ tái sinhtrong cảnh thiếu thốn, phạm vào hành vi dục tính thiếu đạo hạnh sẽ gặp người phốingẫu ngoại tình ; lầm lỗi kéo theo sự trừng phạt, bất hòa đưa đến chia rẽ giữabạn bè, cứ tiếp tục như thế. Quán nhận sai lầm sẽ tạo ra tình trạng hoang mangbất định hướng.
Hanh phúc hay khổ nhọc trong hiện tạilà hậu quả của những hành động mà ta thực thi trong quá khứ, không hơn không kém.
Quy luật chi phối sựtái sinh(tr. 164)
Vô số kiếp tái sinh đang chờ đợi ta,các kiếp ấy có thể tốt hay xấu. Không thể tránh được hậu quả của nghiệp.Khôngthể đảo ngược các hành động. Ta sẽ gặt hái hậu quả một ngày nào đó. Khi một hànhđộng được thực thi, nguyên nhân sẽ sinh ra, nó hiện hữu và tăng trưởng cho đếnkhi nào tạo ra hậu quả. Hành động dù được thực thi từ nhiều kiếp trước, tác độngcủa nó vẫn luôn tiềm tàng, dù trải qua những khoảng thời gian thật lâu dài.
Chìa khoá mang lạisự may mắn và thiếu may mắn(tr. 165)
Các thành phần cá nhân rất khác biệtnhau trong tập thể con người. Nhiều người luôn gặt hái được thành công, một sốkhác chỉ gặp toàn thất bại. Một số người dù không mong muốn nhưng cứ gặpđủ mọithứ bất hạnh, trái lại một số khác tưởng chừng khó tránh khỏi những chuyện tệ hại,thế nhưng chẳng có gì xảy ra. Nêu lên các sự kiện trên đây để thấy rằng không bắtbuộc mọi chuyện phải xảy ra theo như ý mình muốn. Đôi khi ta cố gắng tìmđủ mọicách để mang lại thành công thế nhưng chỉ thấy toàn thất bại. Người ta nghĩ rằngcó người may mắn có người không, thế nhưng may mắn phải có một lý do tứcphải cómột nguyên nhân nào đó tạo ra nó. Theo Phật giáo đấy là hậu quả mang lạitừ cáchành động thực thi trong kiếp trước hay trong kiếp sống hiện tại. Kể cả trườnghợp phải đối đầu với nghịch cảnh, thế nhưng nếu tiềm năng [của nghiệp tích cực mang lại sự "may mắn"]đãchín, sức cố gắng sẽ mang lại thành công.
Trách nhiệm(tr. 165)
Hậu quả phát sinh từ nghiệp thật sự chỉcó ý nghĩa tốt đẹp khi nào chúng mang lại lợi ích góp phần vào sự cải thiện đờisống xã hội và giúp chống lại các kẻ thù nguy hiểm nhất tức vô minh, bámvíu vàhận thù. Dù tin hay không tin, trên thực tế quy luật nhân quả luôn tác động vàocuộc sống thường nhật của ta. Khi tất cả mọi người đều ý thức được tính cách chặtchẽ của quy luật nhân quả, có lẽ khi đó cũng không cần đến cảnh sát vì tâm thứcsẽ giữ vai trò đó. Vì thế, phương pháp hiệu quả nhất ngăn ngừa sát nhân là tự mìnhphải cảnh giác lấy mình. Khi nào ý thức được tương lai hoàn toàn nằm trong taymình, khi đó ta sẽ không phạm vào tội sát nhân [có thểáp dụng cho những người gây ra chiến tranh và điều khiển các cuộc tàn sát].Biến cải nội tâm sẽ giúp tránh được các hành động phạm pháp mang lại sự an bìnhtrong xã hội, thế nhưng muốn biến cải nội tâm phải hiểu được bản chất của chínhmình là gì.
Tất cả đều bắt nguồntừ tâm thức(tr. 166)
Các sự kiện, các biến cố nhất thiếttùy thuộc vào động cơ thúc đẩy làm phát sinh ra chúng. Hãy lấy bối cảnh gia đìnhđể làm thí dụ : nếu mọi người đều cư xử tốt đẹp với nhau không khí gia đình sẽêm ấm, nếu một người bực dọc tức thời căng thẳng sẽ phát sinh. Dù bữa cơm có thịnhsoạn, chương trình truyền hình buổi tối thật lý thú cũng không đủ sức mang lại sựan bình trong gia đình. Bối cảnh tùy thuộc vào thể dạng tâm thức bên trong nhiềuhơn các điều kiện môi trường bên ngoài.
Cộng nghiệp(tr. 166)
Nhiều chúng sinh lệ thuộcvào các bốicảnh thời gian và không gian khác nhau, thế nhưng họ có thể tích lũy mộtthứnghiệp tương tợ nhau. Họ tái sinh chung trong một thời đại và trong cùngmột nơichốn. Khổ đau mà họ gánh chịu là kết quả mang lại từ cộng nghiệpcủa họ [thí dụ nhiều cá thể cùngtái sinh trong một xứ sở nào đó, họ chịu chung những đại nạn xảy ra cho xứ sở ấy,đấy gọi là cộng nghiêp. Trong một mức độ nhỏ hơn chẳng hạn như tai nạn máy bay,hành khách thật đa dạng thế nhưng tất cả gánh chịu một hậu quả giống nhau]
Tác động do mỗi ngườitạo ra đối với môi trường chung(tr. 166)
Một cách tổng quát người ta có thể bảorằng sự tiến hóa của vũ trụ nhất thiết liên hệ với nghiệpcủa chúng sinh. Sự kiện này thật vô cùng phức tạp, thế nhưngta thử lấy thí dụ về sự thay đổi khí hậuchẳng hạn. Hãy tưởng tượng ra một tập thể con người bị chi phối bởi hận thù vàgiận dữ, tôi nghĩ rằng thể dạng xúc cảm tiêu cực đó tác động vào môi trường chungquanh tạo ra nóng bức và khô cằn [Trungđông ?].Nếu sự bám víu và ham muốn của tập thể quá mạnh và lan rộng sẽ tạo ra ẩmthấphoặc ngập lụt [Trung quốc, Nam Mỹ, Áchâu...?].Tôi chỉ muốn nêu lên các suy diễn trên đây thế thôi và không khẳng định gì cả.Dù là một cá thể hay một tập thể, sự sinh hoạt, thái độ và tâm thức của từngngười, ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khácđều góp phần tác động vào môi trường chung.
Ai tạo ra vũ trụ (tr. 167)
Hiên tượng tiến hóa nhất định phải cómột nguyên nhân, thế nhưng sự giải thích nguyên nhân đó lại có hai cách khácnhau. Hoặc ta chấp nhận vũ trụ do Trời sáng tạo, điều đó mang lại nhiều mâu thuẫnvì nhất thiết khổ đau và những gì xấu xa cũng phải do Trời sáng tạo. Hoặc có thểgiải thích là tiềm năng cộng nghiệp của vô tận chúng sinh có giác cảm làm phátsinh ra vũ trụ, tượng trưng cho một môi trường chung thích nghi với sự hiện hữucủa các sinh linh ấy. Vũ trụ mà chúng ta đang sống được tạo dựng từ các hành độngvà tham vọng của chính chúng ta. Và cũng chính vì thế mà chúng ta đang hiện diệntại nơi này. Ít ra điều đó cũng tỏ ra hợp lý (lôgic). [mộtcách giải thích vô cùng cao siêu, cần mở thật rộng tâm thức vượt lên trên địnhkiến và các khái niệm quy ước mới nắm vững được chiều sâu của cách lý luận trênđây, nên liên tưởng đến học thuyết duy thức].
Bản chất không tì vếtcủa tâm thức (tr. 167)
Nếu các thứ nọc độc của tâm thức -như bám víu, hận thù và vô minh - là những thành phần tự tại của tâm thức, sẽ khôngcó cách nào loại bỏ chúng khỏi tâm thức, và nếu đúng như thế hận thù chẳng hạn sẽthường xuyên ngự trị trong ta, nó chỉ chấm dứt khi nào tri thức chấm dứt; đốivới các trường hợp bám víu và dục vọng cũng thế. Thật ra thì không đúng,ta cóthể loại trừ tận gốc bám víu, hận thù và vô minh bởi vì chúng không thuộc vàothành phần tự tại của tri thức, điều đó cho thấy bản thể của tâm thức không hề bịcác khiếm khuyết [bám víu, hận thù và vô minh] làmcho sứt mẻ.
Bản chất rạng ngườicủa tâm thức(tr. 168)
Tâm thức mang bản chất hoàn toàn rạngngời và "sáng suốt", vì thế sự giải thoát có thể thực hiện được. Tìmthấy bản thể đích thật của tâm thức có nghĩa là đạt được sự giải thoát.
Tánh không(tr. 168)
Con người sinh ra và chếtđi. Khổ đau,hạnh phúc đến với họ rồi cũng ra đi. Các biến đổi ấy hiện ra và biến mất. Nếukhổ đau và phúc hạnh đúng là những sự kiện độc lập chúng sẽ bất biến, tức khôngđổi thay. Nếu phúc hạnh, khổ đau và ba thứ nọc độc là bám víu, hận thù và vôminh không lệ thuộc vào những nguyên nhân bên ngoài, chúng sẽ giữ nguyênnhư thếkhông hề biến đổi. Thế nhưng [không đúng như thế]tất cả các hiện tượng ấy chỉ có thể hình dung được bằng thể dạng tánh không vàvô ngã của chúng. Do đó tất cả mọi hiện tượng đều được tạo dựng bởi thựcthể trốngkhông, [nói cách khác] sự tạo dựng đó chỉ là cácbiểu tượng hay cách hiển hiện của thực thể trống không.
Tánh không và con số0 (tr. 168)
Tánh không tương quan vớisự trống không, sự vắng bóng hoàn toàn của bất cứ một sự hiện hữu nội tại nào.Tôi thường giải thích tánh không tương tợ như con số không (0). Con số 0cónghĩa là không có gì cả, thế nhưng nếu không có nó ta không thể tính toán gì được.Vì thế con số 0 là một thứ gì đó, đồng thời cũng không có gì cả. Sự trống khôngcũng tương tợ như thế. Trống không là trống không, thế nhưng đồng thời nó cũnglà nền móng của tất cả.
Không gian và vụ nổ lớn Big Bang(tr. 169)
Rất nhiều triết gia Đôngphương, đặc biệt là các triết gia Phật giáo, nêu lên bốn yếu tố : đất, nước, lửavà khí, kèm theo với chúng là không gian. Bốn yếu tố đầu tiên sở dĩ tồn tại lànhờ vào yếu tố thứ năm tức không gian làm cơ sở chuyển tải cho chúng.
Theo một số kinh sáchPhật giáo chẳng hạn như kinh KalachakraTantra[kinhThời luân], không gian hay không trung (ether) không phải là một sự trốngkhông hoàn toàn hay một sự trống rỗng không có bất cứ gì trong đó. Khônggianđược cấu hợp bởi những "hạt vi tế trống không". Các hạt vi tế trốngkhông làm phát sinh ra bốn yếu tố dưới các thể dạng vật chất tiên khởi thậttinh tế và sau đó mới trở nên thổ thiển hơn (tức là khí, lửa, nước và đất), ngườita gọi đấy là quá trình của sự hình thành. Sau đó chúng tan biến dần, bắt đầu từthể dạng vật chất thô thiển nhất (đất, nước, lửa và khí) chuyển sang cácthể dạngvật chất thật tinh tế để hội nhập trở lại với các hạt vi tế trống không,đấy làquá trình của sự tan biến. Không gian hay tánh không toàn cầu làm cơ sở vận hànhcho cả hai quá trình.
Vụ nổ lớn Big Bang tượngtrưng cho sự hình thành của vũ trụ cho thấy có những điểm tương đồng vớitánhkhông toàn cầu [trong Phật giáo].Các hạt vi thểtinh tế nhất do các ngành khoa học vật lý tân tiến khám phá cho thấy khátương đồngvới những gì mà chúng ta [những người Phật giáo]gọi là các "hạt vi tế trống không". Vì thế tôi thấy hết sức quan trọngphải nghiên cứu về các sự tương đồng trên đây.
Nguồn gốc của vũ trụ(tr. 169)
Phật giáo cho rằng thếkỷ chúng ta đang sống là hậu quả để lại từ các thế kỷ trước, có thể tiếptục sựsuy luận trên đây ngược về khởi thủy của thời gian, tức cách nay khoảng hai mươihay hai mươi lăm tỉ năm. Thế nhưng tại sao và bằng cách nào vụ nổ Big Bang đã xảyra ? Điều đó không ai trả lời được. Đối với tôi có hai cách giải thích tuy cảhai không thể chấp nhận được. Cách thứ nhất cho rằng không có nguyên nhân nào cả,mọi sự vật tự nó xảy ra như thế. Theo tôi thì cách giải thích này không hiểu nổi.Đối với Phật giáo bất cứ một hiện tượng nào cũng phải có một nguyên nhânlàm phátsinh ra nó. Cách giải thích thứ hai mang tính cách thần thánh : vào một ngày đẹptrời nào đó Trời quyết định sáng tạo ra thế giới. Chúng ta cũng không thể chấpnhận sự giải thích này. Theo kinh sách Phật giáo những hạt vi thể tinh tế hiệnhữu từ trước trong không gian, trước khi vũ trụ được hình thành, và hiệnthờichúng vẫn đang hiện hữu. Các hạt vi thể tinh tế mang đặc tính tinh thần cấu tạora các sinh linh và làm phát sinh ra Big Bang. Tại sao ? Bằng cách nào ?Bất cứmột vũ trụ nào sau khi được phát sinh sẽ biến mất sau đó. Vô số chu kỳ [sinh diệt] tiếp nối nhau bất tận.Thế nhưng vũ trụtrong tổng thể của nó tức là "vũ-trụ-tâm-thức" vẫn luôn hiện hữu. Ngườita cũng có thể cho rằng "tâm-thức-tinh-tế" trên đây ["vũ-trụ-tâm-thức"] hàm chứa một sứcmạnh [tiềm năng] vô song, đấy chính là nguyên tắc sáng tạonguyên thủy. Một số chúng sinh vào một lúc nào đó có thể tận hưởng sự hiện hữucủa vũ trụ ấy [khi đã đạt được giácngộ]. Vì thếmà vũ trụ ấy đang hiện hữu. [giác ngộ là khả năng hộinhập với sức mạnh vô song của "vũ-trụ-tâm-thức"].
"Hình tướng là trống không, trống không là hình tướng" (tr.170)
Chúng ta là trốngkhông, hay ít ra các chất liệu cấu tạo ra chúng ta là trống không. Cũng cần nhắclại là chữ trống không không có nghĩa là "hư vô". Một số người hiểusai cho rằng Phật giáo chủ trương chủ nghĩa "hư vô"("nihilism"). Theo Phật giáo, thế giới trong đó gồm có chúng ta là mộtthể chất lưu chuyển, một dòng chảy của các thể dạng. Điều đó không có nghĩa làkhông có gì cả. Tất cả mọi sự vật đều lệ thuộc vào nhau. Không có gì hiện hữuriêng biệt được. Các vật thể này gánh chịu tác động của các vật thể khác, khiến chúng xuất hiện, hiện hữu, biếnmất và lại hiện ra. Thế nhưng tự chúng chúng không thể tự hiện hữu. Vì thế hìnhtướng là "trống không", có nghĩa là hình tướng không thể tách rời mộtcách riêng rẽ ra được, nó không thể độc lập. Hình tướng này lệ thuộc vàovô sốhình tướng khác [để hiện hữu].
Trống không là hình tướngbởi vì bất cứ hình tướng nào cũng bắt buộc hình thành trong cái trống không đó,tức trong thể dạng vắng mặt của sự hiện hữu nội tại. Trống không tham gia vàoviệc hướng dẫn hình tướng, ["Hìnhtướng là trống không, trống không làhình tướng" là một trong những câu nổi tiếng nhất trong Bát nhã Tâm kinh].
Con đường trực tiếp : thuyết thần bí, du-già, thiền định và thể dạng xuấtthần(tr. 171)
Tư duy thuộc lãnh vực kháiniệm mang tính các hạn hẹp, như chúng ta đều biết. Chính vì thế hầu hết các tínngưỡng trên đường dò tìm sự hiểu biết [bằng khái niệm]đều vấp phải thật nhiều khó khăn nan giải, vì thế tất cả đều tìm cách dựa vào một"con đường trực tiếp" hơn. Trên con đường đó người ta thấy xuất hiệnđủ các phương pháp như : thần bí, du-già, một số hình thức thiền định, sự xuấtthần (extaxy) với mục đích mang lại sự giác ngộ. Phương pháp tiếp cận trực tiếpcủa Phật giáo Tây tạng dựa vào "kinh nghiệm" có thể đưa chúng ta trở vềcội nguồn của thế giới, thế nhưng phương pháp này thật vô cùng gay go, đòi hỏi phảicó một tâm thức thật tinh luyện đạt đến cấp bậc cao nhất của sự tinh tế,giúpnó tách rời ra khỏi các chu kỳ thời gian [thời giantheo Phật giáo mang tính cách chu kỳ, chùkỳ thời giannêu lên trong câu trên đây ám chỉ các chu kỳ sinh diệt của cácvũ trụ nối tiếp nhau, xin xem lại mục Nguồngốc của vũ trụtrình bày trên đây]. Một số bạn hữu của tôi hiện cònsống đã đạt được thể dạng ấy [Đức Đạt-lai Lạt-makhông bao giờ tuyên bố là Ngài thực hiện được bất cứ một điều gì "siêunhiên", Ngài chỉ là một nhà tu hành rất bình dị và Ngài chỉ kể ra các phépmầu nhiệm mà người khác làm được].
Sự xuất thần và phúc hạnh (tr.171)
Khi xuất thần (extaxy)ta đạt được một trạng thái tâm linh thật tinh tế ; khi cường độ của nó đạt đến điểmtột đỉnh ta có thể cảm nhận với tất cả niềm hân hoan thể dạng vắng bóng của sựhiện hữu nội tại, tức là tánh không, sự trống không.
Thân xác và chiêm bao(tr. 171)
Thừa hưởng hậu quả từ nghiệpcủa mình trong quá khứ, một sốngười thực hiện được những việc khác thường trong kiếp sống hiện tại. Chẳng hạnnhư các trường hợp tâm thức xuất khỏi thân xác, sở dĩ đạt được khả năng đó lànhờ vào các thành quả tu tập từ các kiếp trước. Các khả năng trên đây phát lộ nhưlà năng khiếu sẵn có. Tuy nhiên trong một số trường hợp đấy là kết quả do sự tutập ngay trong kiếp sống này mang lại. Thiết nghĩ cũng nên xác nhận rõ ràng"thân ảo mộng" [hiện tượng "xuất hồn"]không phải là một sự quán thấy tâm thần nhưng đấy là một thân xác tinh tế thậtsự, có khả năng tách rời khỏi thân xác thông thường và cảm nhận được thếgiới bênngoài đúng như chúng ta cảm nhận trong trạng thái bình thường. Đây là một đườnghướng khảo cứu quan trọng nên quan tâm.
Khoa học và tri thức (tr.172)
Các khảo cứu khoa học sởdĩ tiến hành được là nhờ vào các dụng cụ và máy móc. Các khảo cứu mang tính cáchtâm linh trái lại tiến hành nhờ vào các kinh nghiệm nội tâm và thiền định. Thiếtnghĩ cần phải phân biệt thật minh bạch giữa những gì khoa học bó tay và những gìkhoa học chứng minh là không hiện hữu. Phải hiểu rõ có vô số hiện tượng rất thầnbí. Giác quan của con người có khả năng cảm nhận thật giới hạn, vì thế ta khôngthể bảo rằng bên ngoài khả năng nhận biết của ngũ giác không có gì cả.
Đối với việc tìm hiểutri thức (consciousness), rất nhiều sinh linh [ám chỉcác sinh linh ngoại lệ, các thánh nhân] kể cả một số người, từ thật nhiềuthế kỷ trước đã từng cảm nhận trực tiếp được tri thức, thế nhưng ngày nay chúngta vẫn còn mù tịt không hiểu tri thức là gì [tức khônghiểu phương thức vận hành và bản chất của tri thức là gì]. Các sựnhậnbiết của tri thức không mang hình tướng, không màu sắc, đấy là các hiện tượngkhông thể nhận biết bằng các phương phápthông thường dùng để khảo sát các hiện tượng bên ngoài.
Phật giáo có phải là một khoa học tâm linh hay không ?(tr. 173)
Các tiến bộ khoa học vàkỹ thuật mở rộng thêm không gian cho chúng ta. Thật tuyệt vời ! Từ lúc còn nhỏtôi đã say mê lãnh vực khảo cứu khoa học này ; các khám phá về không gian thậtvô cùng lợi ích cho nhân loại. Thế nhưng các khảo cứu nội tâm cũng đáng cho chúngta chú ý. Trong lãnh vực tâm thức còn nhiều khoảng không gian rộng lớn chờ đượckhám phá.
Nhiều khoa học gia khôngxem Phật giáo như một tôn giáo cứng nhắc mà họ đánh giá Phật giáo như một ngànhkhoa học, và cũng nên hiểu đấy là một ngành khoa học vô cùng phức tạp. Phươngpháp tiếp cận của Phật giáo căn cứ vào thực nghiệm giống như tất cả các ngànhkhoa học khác.
Niết-bàn là gì? (tr. 173)
Niết-bàn là một thứ " phẩm tínhnào đó của tâm thức". Bản chất con người chỉ bị ô nhiễm tạm thời. Sự giao tiếpbình thường giữa chúng ta với cái mà chúng ta gọi là hiện thực hoàn toànbị lệchlạc. Luôn nên nhớ đến sự kiện này. Vì căn cứ trên ảo giác nên sự tương giao đó [giữa ta và hiện thực]sai lầm từ căn bản. Chỉ khinào chúng ta ra thoát được mọi ảo giác khiấy chúng ta mới thấy sự kiện trên đây là một sự thật. Phải loại bỏ sự ô nhiễmđó [tức là sự cảm nhận sai lầm về hiện thực] rakhỏi tâm thức, và điều đó có thể thực hiện được như chúng ta đều biết [tức là đạt được giác ngộ, mục đích tối thượng của Phậtgiáo].
Sau khi thực hiện được sựtinh khiếthóa gọi là giác ngộ trên đây, tâm thức sẽ đạt được thể dạng phẩm hạnh cao nhất gọilà niết-bàn. Trong thể dạng đó tâm thứchóa thành trí tuệ và thoát ra khỏi các chu kỳ hiện hữu. Đã từng có rất nhiều vịhiền triết đạt được niết-bànvà họ chỉcần tu tập trong một kiếp sống duy nhất.
Cái chết và ánhsáng trong suốt(tr. 173)
Cái chết nhất định sẽ đếnvới ta mộtngày nào đó không sai chạy. Nếu phí phạm những giây phút tốt đẹp nhất đời mình vìnhững việc phù phiếm, không chuẩn bị cho cái chết, khi giây phút cuối cùng đã đếnta sẽ mất hết khả năng suy nghĩ vì chỉ biết lo âu. Quá sợ hãi ta không còn đủtrầm tĩnh để tu tập nữa.
Khi giây phút cuối cùng gần kề ta phảitập trung tư duy vào những gì thiết thực. Thể dạng tâm thức đúng vào lúcđó sẽquyết định cho những gì xảy ra sau này. Những giây phút cuối cùng hàm chứa mộtsức mạnh quan trọng hơn cả những gì xứng đáng mà ta thu góp trong suốt cuộc sống.Vì thế phải sử dụng thiền định để tìm hiểu quá trình của cái chết và tậpcho quendần với nó. Chính tôi thường xuyên tu tập theo cách ấy. Mỗi ngày tôi sử dụng thiềnđịnh để vượt qua tám giai đoạn tan biến của cái chết.
Quá trình của cái chết khởi đầu bằngsự tan biến của cấu hợp hình tướng ; các thành phần đất suy yếu, thành phần nướcthay thế và trở thành cơ sở chống đỡ cho sự hiểu biết bình thường. Ngườihấp hốicó cảm giác như thân xác bị lún sâu xuống đất [cảm thấythân xác cứng đơ và rất nặng]. Hai mắt hoa lên [khảnăng thị giác suy yếu]. Người hấp hối có cảm giác nhìn thấy một ảo ảnh nàođó bên trong nội tâm. Sau đó cấu hợp xúc giác tan biến [không còn cảm thấy quần áo mặc trên người, lưng chạm xuống giường cũng khôngbiết, người khác hay vật gì va chạm vào thân xác cũng không hay biết].Tiếptheo đó sức mạnh của thành phần nước giảm xuống, thay vào đó thành phần lửa trởnên lấn lướt hơn. Miệng khô, mắt đờ đẫn. Nội tâm quán thấy những hình ảnh giốngnhư khói.
Trong giai đoạn thứ ba, cấu hợp của khảnăng nhận biết tan biến. Thể dạng lửa không còn chống đỡ được tri thức, thể dạngkhí thay thế vai trò đó và trở nên quan trọng hơn. Đối với môi trường chungquanh người hấp hối không còn nhận biết được người thân. Nội tâm quán thấy nhữnghình ảnh giống như đom đóm, tương tợ như các đốm lửa bắn ra từ một chiếcpháo bông.
Trong giai đoạn thứ tư, các cấu tạotâm thần tan biến. Thể dạng gió (khí) yếu dần không còn chống đỡ được tri thức.Triệu chứng bên ngoài là ngưng thở. Triệu chứng bên trong là cảm giác nhìn thấymột ngọn lửa màu đỏ nhạt.
Thông thường vào giai đoạn này các bácsĩ y khoa xác định quá trình của cái chết đã kết thúc theo tiêu chuẩn y khoa.Thế nhưng theo chúng tôi [những người Phật giáo Tây tạng]quá trình của cái chết chưa chấm dứt, tuy rằng bắt đầu từ thời điểm này khả năngcảm nhận của các giác quan đã mất, thế nhưng tri thức vẫn hoạt động, điều đó khôngcó nghĩa là người hấp hối có thể hồi tỉnh lại được. Bốn cấp bậc thô thiển vàtinh tế vẫn còn tiếp tục tồn tại trong giai đoạn này, chúng chỉ tan biếnsau nàykhi bốn giai đoạn cuối cùng bắt đầu diễn tiến [tất cảlà tám giai đoạn].
Cấp bậc thô thiển nhất [thứ năm, tức giai đoạn một của bốn giai đoạn cuối cùng]tan biến trước nhất, dấu hiệu bên trong là sự quán thấy một màu trắng tương tợnhư bầu trời mùa thu thật tinh khiết chan hòa ánh trăng rạng rỡ. Bên ngoài khôngcòn một dấu hiệu nào phát hiện.
Sự quán thấy màu trắng vàkhí lựchay "gió" chuyển tải nó tan biến [giaiđoạnthứ sáu]. Một sự quán thấy khác tinh tếhơn xuất hiện : đó là một màu đỏ rực rỡ tỏa rộng, tương tợ như bầu trời mùa thutrong suốt chan hòa ánh sáng màu đỏ của mặt trời.
Trong giai đoạn thứ bảy, phát sinh mộtsự quán thấy khác, tinh tế hơn các cấp bậc trước : đó là sự quán thấy một màu đenbóng loáng gần như dầy đặc. Hình ảnh này tương tợ như bầu trời mùa thu thậttinh khiết vào lúc gần nửa đêm. Trong phần đầu của giai đoạn này, người chết vẫncòn ý thức, thế nhưng khả năng yếu dần và cuối cùng lắng vào một trạng thái vôtri.
Khi sự cảm nhận màu đen bóng loángvà dầy đặc cùng với năng lực chuyển tải nó tan biến, một sự cảm nhận tinh tế hơnhết so với tất cả các cảm nhận trước đây hiển hiện : đấy là "ánh sángtrong suốt của cái chết". Thể dạng cảm nhận đó tương tợ như bầu trời bìnhminh vào mùa thu, trong vắt không một gợn mây. Người ta gọi đấy là tri thứcnguyên thủy, bởi vì nó là nguồn gốc làm phát sinh ra tất cả các thể dạngtri thứckhác. Đấy chính là lúc sự sống chấm dứtthật sự.
Đối với những người bình thường ,giai đoạn trên đây hoàn toàn vô thức, tương tợ như bất tỉnh. Đối với những ngườiluyện tập du-già thì đấy lại là giây phút phải đem ra ứng dụng các kết quả tu tậpcủa mình trước khi các tế bào trong cơ thể thoái hóa [tronggiai đoạn này các cơ quan trong cơ thể không còn dùng được để ghép cho các bệnhnhân khác]. Người du-già có khả năng nhận biết được thể dạng tinhtế caonhất trên đây : đấy là "tri thức ánh sáng trong suốt", [người luyện tập ý thức được thể dạng ánh sáng trong suốt vàhội nhập với ánh sáng đó, không chuyển sang quá trình thô thiển của sự tái sinh]
Ba cấp bậc tri thức(tr. 176)
Tri thức được phân chia thành ba cấpbậc tinh tế khác nhau : thể dạng đang trong lúc thức (hay thể dạng thô thiển củatri thức), thể dạng chiêm bao (tinh tế hơn) và thể dạng ngủ thật say (tinh tế hơnhết, hoàn toàn không còn chiêm bao).
Người ta có thể so sánh ba thể dạng ấyvới ba giai đoạn sinh, chết trên phương diện vật chất và thể dạng trung gian gọilà bardo[trungấm hay trung hữu] trước khi xảy ra sự tái sinh [thụthai]. Ba giai đoạn vừa kể [sinh,chết và trunggian] được phân biệt thành ba cấp bậc khác nhau, căn cứ vào ba cấp bậc trithức tinh tế của chúng. Trong khi xảy ra quá trình của cái chết, người đang chếtlắng thật sâu vào tri thức tinh tế. Thế nhưng sau khi đã chết, và sau giai đoạntrung gian hay bardo, cá thể ấy lại bịchi phối trở lại bởi sự tái sinh, theo đó tri thức cũng dần dần trở nên thô thiểnhơn. Tri thức càng lúc càng trở nên dầy đặc trong quá trình diễn tiến của sự táisinh và đầu thai.
Rất nhiều tập sách thuật lại trườnghợp nhiều người nhớ lại kiếp trước của mình. Nghiên cứu thêm về các hiệntượngtrên đây sẽ mang lại nhiều lợi ích và mở rộng thêm kiến thức cho nhân loại.
Phép luyện tậpdu-già(tr. 176)
Đối với một số người phépluyện tậpdu già quá khó, tạo ra đau đớn và chẳng giúp ích được gì cho tâm thức. Đối với mộtsố người khác đó là một phương pháp đơn giản và tự nhiên, giúp mang lại sự thoảimái trên phương diện tổng quát. Tuy nhiên phương tiện dùng để tinh khiếthóa tâmthức vẫn chính là tâm thức. Nếu cảnh giác cẩn thận, theo dõi các quá trình vậnhành của tâm thức, ta sẽ vô cùng sửng sốt nhận thấy tầm quan trọng vô song của nó.Tâm thức chính là trung tâm của tất cả [từ các biến cố và hiện tượng cho đến sự giải thoát và giác ngộ].
Con đường trí tuệ(tr. 177)
Trí tuệ cần thiết cho việc tìm hiểu sựthật sâu xa hay tối thượng, tức là tánh không - trí tuệ dùng để cảm nhậnsự vắngmặt của cái ngã - nó có thể mang tính cách trực tiếp hay gián tiếp. Trí tuệ dựavào sức mạnh duy nhất của nó và được bổ khuyết thêm một số khả năng khác- sựtin tưởng, sự tập trung và cố gắng - có thể phá tan được sức mạnh của ảogiác.
Sự tiếp cận hợp lý(lôgic) đối với hiện thực(tr. 177)
Những người tu tập Phật giáo luôn chútâm vào chủ đích tìm kiếm sự thật hay hiện thực. Thế nhưng đồng thời họ cũng khẳngđịnh không nên hoàn toàn tin tưởng vào sự cảm nhận của mình đối với hiệnthực,bởi vì có một sự cách biệt giữa các thể dạng hiển hiện của các sự vật vàphươngcách hiện hữu của chúng. Tuy nhiên sau đây là các phương pháp tốt nhất có thể sửdụng để tiếp cận và tìm hiểu hiên thực : phương pháp suy luận căn cứ trên sự hợplý (lôgic), phương pháp suy diễn (phân tích), tam đoạn luận mang lại sự hiểnnhiên, đấy là ba thứ khí cụ chính yếu được sử dụng để chứng minh sự hợp lý(lôgic). Đấy là các modus operandi[các chữ này là tiếng La-tinh, tạm dịch là các "phương thức hành động"] giúpchuyển một sự quán nhận sai lầm trở thành một sự cảm nhận vững chắc, [Phật giáo xem các hiện tượng chỉ là ảo giác không phải hiệnthực, bản chất của hiện thực là tánh không, muốn quán nhận được tánh không rấtkhó, phải dựa vào nhiều phương pháp khác nhau].
Sự hợp lý (lôgic)và trí tuệ tự tại(tr. 177)
Trí tuệ dùng để quán nhậnsự vắng mặtcủa cái ngã. Sự quán nhận đó được căn cứ vào sự hợp lý (lôgic) thật vữngchắc vàkhi ta đã quen với quá trình phân tích sự vững chắc của nó [tức sự vắng mặt của cái ngã] trí tuệ tự tại sẽ pháthiện để loại bỏ vô minh. Không những trí tuệ có thể tự hiển hiện mà còn có thể tỏarộng đến vô biên nếu ta biết phát huy nó. Khi trí tuệ nẩy nở sẽ khiến các ý nghĩvề sự hiện hữu tự tại suy yếu dần và sau cùng sẽ hoàn toàn biến mất. Mọisự khổnhọc và lầm lẫn sẽ tan biến khi tiếp xúc với hiện thực. Chúng không còn lưu lạimột dấu vết nào trong bầu không gian của hiện thực tinh khiết, kết quả thực tiễnlà trong trường hợp đó ta không còn tạo nghiệp[phát huy được trí tuệ, quán nhận được tánh không, loạibỏ được vô minh, nhìn thấy được bản chất vô ngã của mọi hiện tượng, ta khôngcòn tạo nghiệp nữa và đấy cũng là thể dạng giải thoát].
Tu tập Đạo Phápmang lại sự thanh thản(tr. 178)
Đạo Pháp giải thích tại sao lại có nhiềucấp bậc khổ đau khác nhau. Theo thuyết nhân quả nghiệpchi phối hành động và hậu quả của nó, dựa vào đó chúng tatin có kiếp sau [nếu không có kiếp sau không thể giảithích sự bất hạnh quá ư khác biệt giữa các cá thể con người]. Sự tin tưởngđó góp phần mang lại cho chúng ta một sự thanh thản trong cuộc sống và giúp chúngta chấp nhận các biến cố tiếp nối nhau xảy ra trong cuộc đời mình. Chúngta hiểurằng mọi sự bồn chồn và xoay sở đều hoàn toàn vô ích, không nên quá lo âu về nhữngnỗi khổ đau của mình, [vì đó là hậuquả do chính mìnhtạo ra].
Sự kiện quán nhận được bản chất tạmthời của khổ đau ngày càng minh bạch hơn sẽ tránh cho chúng tình trạng vô tâm hoặccách suy nghĩ đại loại như : "chẳng có gì quan trọng". Khả năng ý thứcđược sự khổ đau đúng với bản chất của nó [vì đôi khita hiểu lầm khổ đau là hạnh phúc, chẳng hạn như sự thích thú do giác cảmmang lại]là một phẩm tính giúp khơi động niềm khát vọng loại bỏ nó, [vì khổ đau mang tính cách tạm thời không phải tự tại và vĩnhviễn, vì thế phải ý thức được điều đó để loại bỏ nó].
Bốn sự thực cao quý(tr. 178)
Đức Phật dạy như sau : "Đây làkhổ đau đích thực, đây là nguyên nhân đích thực, đây là con đường đích thực".Ngài nói thêm : "Hãy ý thức khổ đau, loại bỏ những nguyên nhân của nó, đạtđược sự chấm dứt khổ đau, bước theo con đường đúng đắn" [tức là bát chánh đạo]. Đức Phật lại giảng thêm :"Hãy ý thức được khổ đau, mặc dù chẳng có gì để ý thức, hãy từ bỏ các nguyênnhân mang lại khổ đau, mặc dù chẳng có gì để từ bỏ, hãy xa lánh thế tục một cáchnghiêm túc, mặc dù chẳng có gì để xa lánh" [cónghĩa tất cả đều là tánh không, nắm vững tánh không của mọi hiện tượng mới cóthể đạt được giác ngộ tối thượng, loại bỏ khổ đau chỉ là sự giải thoát].Đấylà ba thể dạng của bản thể tự tại, của hành động và kết quả tối thượng của Tứ Diệu Đế.
Tượng vẽ Đức Phật A Di Đà đứng giữa, trên tòa sen lớn, hai bên có hai vị Bồ tát đứng trên hai tòa sen nhỏ hơn (có khi vẽ cả ba vị đều ngồi) là Quán Thế Âm (bên trái) và Đại Thế Chí (bên phải). Cũng tương tự như trường hợp hai Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền; Bồ tát Quán Thế Âm tượng trưng cho Bi, Bồ tát Đại Thế Chí tượng trưng cho Trí. Cả hai vị này hộ trì Đức Phật A Di Đà giáo hóa và dẫn đạo chúng sinh về cõi Tịnh độ Cực lạc.
Quán Thế Âm (Phạn danh là Avalokitesvara): Tương truyền trong quá khứ Ngài là Thái tử Bất Huyền, con vua Vô Tránh Niệm, nguyện cứu độ hết thảy chúng sinh nên được Đức Bảo Tạng Như Lai đặt tên là Quán Thế Âm và được thọ ký sẽ thành Phật. Quán là trí. Âm là bi. Quán Thế Âm là nghe âm thanh kêu than khổ của chúng sinh mà đến cứu giúp. Ngài xuất hiện trong Kinh Pháp Hoa, Thủ Lăng Nghiêm… dưới hình thức nam giới. Tại Trung Quốc, từ thế kỷ X, Ngài được vẽ hình là nữ giới, tượng trưng sự yêu thương của người mẹ. Từ đó tín ngưỡng Quán Thế Âm trở nên rộng rãi lan dần khắp nhiều nơi trên thế giới. Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn nêu rõ về các đại nguyện cứu độ chúng sinh của Ngài và theo thời gian, ảnh tượng Ngài được tô tạo thành nghìn tay nghìn mắt, hoặc cầm cành dương, bình cam lồ hoặc cưỡi rồng… Ngài có hàng chục hóa thân để tùy cơ duyên cứu độ: Phật, Bồ- tát, Phạm Vương, Đế Thích, A-tu-la, Thiên Long, Dạ-xoa, Tỳ kheo, Tăng, Ni, Tể tướng, Cư sĩ… Án ma ni bát-mê hồng (Om mani Padme Hum) là một chân ngôn thuộc tính của Ngài, Đại bi tâm Đà-la-ni là bài chú nói về công đức của Ngài. Theo Mật giáo, Ngài là thị giả của Đức Phật A-di-đà nhưng về mặt bản giác, Ngài chính là Đức A Di Đà.
Đại Thế Chí: (Phạn danh là Mahasthamaprapta): Ngài là vị Bồ tát dùng ánh sáng trí tuệ đại diện cho Đức Phật A Di Đà quán chiếu tất cả, khiến chúng sinh lìa khổ. Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, phẩm Niệm Phật viên thông, Ngài tu hành, nhất tâm niệm Phật mà đắc Vô sinh Pháp nhẫn, nguyện dẫn dắt chúng sinh cõi Ta bà về Tây phương Tịnh độ. Kinh Bi Hoa quyển ba chép rằng Ngài sẽ thay Đức Phật A Di Đà, rồi thay Đức Quán Thế Âm mà cứu độ chúng sinh. Trong Mật giáo, Ngài là vị thứ hai trong viện Quan Âm, ngồi trên hoa sen đỏ, thân màu trắng, tay trái cầm hoa sen mới nở, tay phải co ba ngón giữa, đặt trước ngực. Mật hiệu của Ngài là Trì Luân Kim Cang.
3. Tam thánh còn được dùng để chỉ cho ba hàng chứng đắc thần thông thuộc ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát
Trong giới đàn Viên đốn, Tam thánh gồm Phật Thích Ca làm Hòa thượng , Bồ tát Văn-thù làm Yết-ma A-xà-lê, Bồ-tát Di Lặc làm Giáo thọ A-xà-lê. Tông Thiên Thai của Nhật Bản tôn xưng ba Đại sư Truyền giáo, Từ Giác, Trí Chúng là Tam thánh.
Việc thờ tượng Tam thánh Thích Ca, Di Đà là rất quan trọng, nhằm tăng trưởng niềm tin kính Phật và quan trọng nhất là thúc đẩy các Phật tử tu học, thực hành theo Phật pháp, đặc biệt là về đức hạnh và trí tuệ chứ không phải chỉ mong được phù hộ, ban ơn phước.
Ý nghĩa tượng Tây Phương Tam Thánh :
+ Tượng Phật A Di Đà: Có dáng đứng hoặc ngồi trên đài sen lớn. Ngài là vị Đức Phật vô lượng thọ, hào quang chói khắp muôn nơi. Đưa chúng sinh thoát khỏi những khổ cực, muộn. Thức tỉnh, nhận ra những chân lý của sự khổ đau để hướng về nhất tâm, những điều thiện lành trong cuộc sống.
+ Tượng Phật Bồ Tát Quán Thế Âm: Có dáng đứng hoặc ngồi trên đài sen lớn với tay phải cầm nhành dương liễu (tượng trưng cho đức nhẫn nhục), tay trái cầm bình thanh tịnh (tượng trưng cho lòng từ bi). Hình ảnh của Phật Bà Quan Âm hiện lên như là một cách răn dạy nhân thế sống lương thiện, tránh xa những điều sai trái. Phật Bà khiến tâm tính chúng sinh trở nên thanh tịnh, từ bi, hướng tới những điều tốt đẹp. Cứu vớt những người gặp nạn, mang tới sự may mắn trong cuộc sống, yên vui cho gia đạo.
+ Tượng Phật Bồ Tát Đại Thế Chí: Có dáng đứng hoặc dáng ngồi đài sen lớn với nhành hoa sen trên tay. Ngài là tiêu biểu cho ý chí nghị lực, trí tuệ siêu việt, soi sáng để hóa độ chúng sinh rời xa cõi ác, bề khổ, mang lại những điều tốt lành, may mắn trong cuộc sống.
Việc thờ tượng Tây Phương Tam Thánh không đơn thuần là cầu mong sự phù hộ, ban ơn, mà điều cốt lõi là niềm tin vào cửa Phật, tin kính Phật. Đồng thời, thúc đẩy các Phật tử tu học theo Phật pháp, phát triển về đức hạnh và trí tuệ, hướng tới nhất tâm.
Cách thờ tượng Tam Thánh Tây Phương tại gia
- Bàn thờ Phật và bàn thờ gia tiên thường được thiết trí trong phòng thờ với quy cách "thượng Phật, hạ linh" (bàn thờ Phật ở trên, bàn thờ gia tiên ở dưới) hay "tiền Phật, hậu linh" (bàn thờ Phật ở phía trước - cao hơn, bàn thờ gia tiên ở phía sau - thấp hơn).
- Khi thờ Tây phương Tam Thánh, tượng Phật A Di Đà đứng ở giữa, tượng Bồ-tát Ðại Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh (tượng trưng cho trí tuệ) đứng bên tay phải Phật A Di Ðà, tượng Bồ-tát Quán Thế Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy (tượng trưng cho từ bi) đứng bên tay trái Phật A Di Đà.
- Trên bàn thờ Phật và gia tiên còn có lư hương, chân đèn, bình hoa, đĩa quả, ba chén nước. Hàng ngày cần thay nước, thắp hương cúng dường và quét dọn bàn thờ luôn sạch sẽ, trang nghiêm. Bạn nên đến chùa thỉnh chư vị Tăng (Ni) đến làm lễ an vị Phật cho bạn. Nếu chưa đủ duyên để thỉnh Tăng thì bạn có thể tự làm lễ an vị Phật cho gia đình của mình.
Tây Phương Tam Thánh 西方三聖
Trong thiền môn, bức tranh vẽ “Tây Phương Tam Thánh” Bồ Tát Ðại Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh đứng bên tay phải Ðức Phật A Di Ðà, bên tay trái là Bồ Tát Quán Thế Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy. Trong kinh sách hai vị Bồ Tát hiện thân cư sĩ nữ hai bên Ðức Phật A Di Ðà tượng trưng Từ Bi và Trí Tuệ.
Hình tượng Phật A-Di-Đà
Đức Phật A Di Đà xưa phát 48 lời nguyện lớn, trong đó có lời nguyện sẵn sàng tiếp dẫn chúng sanh nào niệm danh hiệu của Ngài. Dù người ấy chỉ niệm mười câu danh hiệu Ngài, Ngài cũng tiếp dẫn vãng sanh về cõi Cực-lạc. Tượng đứng trên hoa sen,mắt Ngài nhìn xuống, tay trái bắt ấn cam lồ và đưa lên ngang vai, tay mặt duỗi xuống như sẵn sàng chờ đợi cứu vớt những chúng sanh đang đắm chìm trong bể khổ. Theo trong mật giáo giải thích: tay mặt Phật đưa lên biểu thị tứ thánh (Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật), tay trái duỗi xuống biểu thị lục phàm (Thiên, nhơn, A-tu-la, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục). Nghĩa là Ngài sẵn sàng tiếp độ lục phàm đưa lên quả vị tứ thánh.
Hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm
Bồ-tát Quán Thế Âm tu hạnh từ bi, thường cứu khổ chúng sanh, nên người ta thường xưng tán Ngài là Đại từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát. Hạnh đại từ bi của Ngài là lúc nào cũng an ủi, nhắc nhở, khuyên lơn, đem lại nguồn an vui cho tất cả chúng sanh. Ở đâu có tiếng than, có nỗi khổ, Ngài đều đến để cứu vớt. Bồ-tát Quán Thế Âm tay trái cầm bình cam lồ, tay phải cầm cành dương liễu. Kinh Phổ Môn có câu “Nam-mô thanh tịnh bình thùy dương liễu Quan Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện”. “Thanh tịnh bình” là bình thanh tịnh, “thùy dương liễu” là cành dương liễu rủ xuống, “Quan Âm Như Lai cam lồ sái tâm” là nước cam lồ của đức Quan Âm rưới lên tâm. Ý nghĩa nguyên câu ấy là bình thanh tịnh đựng nước cam lồ, nhờ cành dương liễu rưới khắp làm cho tâm người được mát mẻ. Bình thanh tịnh là giới đức. Như Phật tử giữ năm giới, nhờ giữ giới mà trong sạch thanh tịnh. Cành dương liễu yếu mềm dẽo dai nên khó gãy, gió chiều nào nó lay theo chiều đó nhưng không gãy. Những cành cây cứng gặp gió mạnh nó dễ gãy. Như vậy cành dương liễu biểu trưng cho đức nhẫn nhục. Muốn đem lòng từ bi ban rải cho chúng sanh được an vui mà thiếu đức nhẫn nhục thì lòng từ bi khó thực hiện được.
Hình tượng Bồ tát Đại Thế Chí
Bồ Tát Ðại Thế Chí biểu trưng cho đức tinh tấn và ánh sáng trí tuệ. Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại vượt thoát khỏi bùn nhơ, thành tựu trí tuệ. Màu xanh của hoa sen tỏa ánh sáng xanh trên cõi trời tây phương tịnh độ, và còn là sức mạnh tinh tấn của chánh định, là trí tuệ siêu việt như trời biển tĩnh lặng rộng lớn bao la bát ngát. Danh hiệu của Bồ Tát Đại Thế Chí nói lên hạnh nguyện đại hùng, đại lực, đại tinh tấn và ánh sáng trí tuệ vô biên chiếu khắp mọi loài chúng sanh, có thể phá trừ vô minh, điều phục tham sân si, chuyển hóa phiền não thành bồ đề.
西方三聖,又稱彌陀三尊,指的是西方極樂世界三尊主要的佛菩薩,即教主阿彌陀佛,和他的左脅侍觀世音菩薩、右脅侍大勢至菩薩。
造像上,三者皆在蓮座上,蓮象徵出淤泥而不染,於一真法界而能應化在十法界;阿彌陀佛居中,觀音菩薩脅侍在左,大勢至菩薩脅侍在右。三者塑像或畫像為修行淨土宗者禮敬的對象。
《觀無量壽佛經》中所觀想之佛菩薩身相即為此三尊之身相。
SƠ QUA VỀ CÁC VỊ BỒ TÁT
Định nghĩa Bồ Tát: BỒ TÁT (Bodhisattva), Tên đầy đủ là Bồ-đề-tát-đoá, còn gọi là Bồ-đề- tác-đóa, Ma- ha- đế- tác- đóa. Cũ dịch là Đại đạo tâm chúng sinh, Đạo chúng sinh.v..v. mới dịch là đại Giác hữu tình, Giác hữu tình....nghĩa là người có đại tâm cầu đạo. Các vị đại Bồ Tát đối với trên thì cầu được đạo Phật, đối với dưới thì cầu giáo hoá chúng sinh. Chư Bồ Tát khi mới phát tâm, ai nấy đều phát nguyện bốn đều thề lớn său đây, sau này gọi là tứ hoằng-thệ:
1)-Chúng sanh vô biên, thề nguyện độ. Thề xin độ hết thẩy chúng sanh vô biên. Ấy là lấy Khổ- đế làm duyên mà phát thệ.
2)-Phiền não vô số thề nguyện đoạn. Thề xin dứt hết phiền não vô số. Ấy là lấy Tập- đế làm duyên mà phát thệ.
3)-Pháp môn vô tận, thề nguyện học. Thề xin học hết pháp môn vô tận. Ấy là lấy Đạo- đế làm duyên mà phát thệ.
4)-Phật-đạo vô-thượng thề-nguyện thành. Thề xin thành đạo Phật vô thượng. Ấy là lấy Diệt-đế làm duyên mà phát thệ.
Đối với tâm thân mình, chư Bồ Tát phát bốn điều nguyện lớn sau đây:
1)-Tâm như đại đại. Nguyện cái tâm mình như đất lớn, để nuôi lớn chúng sinh cho được thành chánh quả.
2)-Tâm như kiều thuyền. Nguyện cái tâm mình như cái cầu, cái thuyền để đưa chúng sinh sang bến bên kia.
3)-Tâm như đại hải. Nguyện cái tâm mình như bể lớn, để nuôi chứa chúng sinh trong chỗ chân nguyên (mối đầu chân thật phát sinh ra vạn vật).
4)-Thân như hư không. Nguyện cái thân mình như hư không bao hàm hết thẩy vạn vật, cùng với chúng sinh bình đảng vô nhi.
Đối với chúng sinh, chư Bồ Tát phát bốn điều thệ nguyện lớn như sau:
1)-Vị độ giả, linh độ. Ai chưa được độ, thì khiến được độ.
2)-Vị giải giã, linh giải. Ai chưa hiểu, thì khiến được hiểu.
3)-Vị an giả, linh an. Ai chưa được an, thì khiến được an.
4)-Vị Niết-bàn giả, linh niết bàn. Ai chưa được niết-bàn thì khiến được niết bàn.
Trên đây tôi chỉ dẫn giải một số hạnh nguyện chính của các vị Bồ-Tát, tôi không đi sâu vào Hạnh nguyện của từng vị, mỗi vị có một hạnh nguyện khác nhau
Ta Ba Tam Thánh (có một số phiên âm thì gọi là Sa-Bà Tam Thánh) là ba vị được người thế gian xưng tụng là ba vị thường ở thế giới Ta Bà này độ hoá chúng sanh, bao gồm Thích Ca Mâu Ni Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát và Địa Tạng Bồ Tát.
Hầu hết chùa Tịnh Độ Tông tại miền Nam đều thờ Sa bà Tam thánh tại Chánh điện. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Giáo Chủ của Thế Giới Sa Bà hiện tại.
Bồ Tát Quán Thế Âm có hạnh nguyện Đại Bi luôn quán sát lắng nghe âm thanh cầu cứu của chúng sinh liền hóa hiện vô số Hóa Thân đến cứu khổ. Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ, cũng như chỉ có trí tuệ mới diệt được ngu si.
Do đó, Bồ Tát Quan Thế Âm thiết lập tâm đại từ, đại bi mà thực hiện đại thệ nguyện độ sanh của Ngài. TỪ là đem niềm vui đến cho kẻ khác. Chữ Từ như người ta thường nói: Từ thiện, từ ái, từ mẫu, từ tâm. Từ tâm đối với ác tâm, sân tâm, ích kỷ tâm….BI là phương châm, là cách thức hành động để cứu khổ.
Bồ Tát Địa Tạng đã nhận lời phó chúc của Đức Phật Thích Ca. Ở trong thời đại không có Phật cho đến lúc Bồ Tát Di Lặc thành Đạo. Ngài sẽ làm vị Bồ Tát tự thề cứu độ hết chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi ở cõi Sa Bà này. Sau đó mới thành tựu Nguyện của mình. Đức Địa Tạng là một vị đã chứng bực Đẳng Giác trải đến vô lượng A Tăng Kỳ kiếp rồi. Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề. Và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
Vì thế mới thiết lập tượng thờ Đức Phật Thích Ca chung với hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm, Địa Tạng và hợp xưng là Sa Bà Tam Thánh (hay Ta Bà Tam Thánh).
Do tâm lý của giáo đồ Phật Giáo phương Đông, khi sống gặp nạn khổ thì mong cầu vào sự cứu giúp của Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi chết đi thì trông cậy vào sự hóa độ của Bồ Tát Địa Tạng… Thế nên Tôn Tượng Sa Bà Tam Thánh được phổ truyền rất rộng rãi trong dân gian. Có ảnh hưởng rất sâu rộng trong đời sống văn hóa và tâm linh của người đời.
Ý Nghĩa Ta Bà Ha
HT.Tuyên Hóa
(Trích trong ‘Đại Bi Chú Giảng Giải
造像上,三者皆在蓮座上,蓮象徵出淤泥而不染,於一真法界而能應化在十法界;阿彌陀佛居中,觀音菩薩脅侍在左,大勢至菩薩脅侍在右。三者塑像或畫像為修行淨土宗者禮敬的對象。
《觀無量壽佛經》中所觀想之佛菩薩身相即為此三尊之身相。
SƠ QUA VỀ CÁC VỊ BỒ TÁT
Định nghĩa Bồ Tát: BỒ TÁT (Bodhisattva), Tên đầy đủ là Bồ-đề-tát-đoá, còn gọi là Bồ-đề- tác-đóa, Ma- ha- đế- tác- đóa. Cũ dịch là Đại đạo tâm chúng sinh, Đạo chúng sinh.v..v. mới dịch là đại Giác hữu tình, Giác hữu tình....nghĩa là người có đại tâm cầu đạo. Các vị đại Bồ Tát đối với trên thì cầu được đạo Phật, đối với dưới thì cầu giáo hoá chúng sinh. Chư Bồ Tát khi mới phát tâm, ai nấy đều phát nguyện bốn đều thề lớn său đây, sau này gọi là tứ hoằng-thệ:
1)-Chúng sanh vô biên, thề nguyện độ. Thề xin độ hết thẩy chúng sanh vô biên. Ấy là lấy Khổ- đế làm duyên mà phát thệ.
2)-Phiền não vô số thề nguyện đoạn. Thề xin dứt hết phiền não vô số. Ấy là lấy Tập- đế làm duyên mà phát thệ.
3)-Pháp môn vô tận, thề nguyện học. Thề xin học hết pháp môn vô tận. Ấy là lấy Đạo- đế làm duyên mà phát thệ.
4)-Phật-đạo vô-thượng thề-nguyện thành. Thề xin thành đạo Phật vô thượng. Ấy là lấy Diệt-đế làm duyên mà phát thệ.
Đối với tâm thân mình, chư Bồ Tát phát bốn điều nguyện lớn sau đây:
1)-Tâm như đại đại. Nguyện cái tâm mình như đất lớn, để nuôi lớn chúng sinh cho được thành chánh quả.
2)-Tâm như kiều thuyền. Nguyện cái tâm mình như cái cầu, cái thuyền để đưa chúng sinh sang bến bên kia.
3)-Tâm như đại hải. Nguyện cái tâm mình như bể lớn, để nuôi chứa chúng sinh trong chỗ chân nguyên (mối đầu chân thật phát sinh ra vạn vật).
4)-Thân như hư không. Nguyện cái thân mình như hư không bao hàm hết thẩy vạn vật, cùng với chúng sinh bình đảng vô nhi.
Đối với chúng sinh, chư Bồ Tát phát bốn điều thệ nguyện lớn như sau:
1)-Vị độ giả, linh độ. Ai chưa được độ, thì khiến được độ.
2)-Vị giải giã, linh giải. Ai chưa hiểu, thì khiến được hiểu.
3)-Vị an giả, linh an. Ai chưa được an, thì khiến được an.
4)-Vị Niết-bàn giả, linh niết bàn. Ai chưa được niết-bàn thì khiến được niết bàn.
Trên đây tôi chỉ dẫn giải một số hạnh nguyện chính của các vị Bồ-Tát, tôi không đi sâu vào Hạnh nguyện của từng vị, mỗi vị có một hạnh nguyện khác nhau
TA BÀ TAM THÁNH :
Hầu hết chùa Tịnh Độ Tông tại miền Nam đều thờ Sa bà Tam thánh tại Chánh điện. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Giáo Chủ của Thế Giới Sa Bà hiện tại.
Bồ Tát Quán Thế Âm có hạnh nguyện Đại Bi luôn quán sát lắng nghe âm thanh cầu cứu của chúng sinh liền hóa hiện vô số Hóa Thân đến cứu khổ. Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ, cũng như chỉ có trí tuệ mới diệt được ngu si.
Do đó, Bồ Tát Quan Thế Âm thiết lập tâm đại từ, đại bi mà thực hiện đại thệ nguyện độ sanh của Ngài. TỪ là đem niềm vui đến cho kẻ khác. Chữ Từ như người ta thường nói: Từ thiện, từ ái, từ mẫu, từ tâm. Từ tâm đối với ác tâm, sân tâm, ích kỷ tâm….BI là phương châm, là cách thức hành động để cứu khổ.
Bồ Tát Địa Tạng đã nhận lời phó chúc của Đức Phật Thích Ca. Ở trong thời đại không có Phật cho đến lúc Bồ Tát Di Lặc thành Đạo. Ngài sẽ làm vị Bồ Tát tự thề cứu độ hết chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi ở cõi Sa Bà này. Sau đó mới thành tựu Nguyện của mình. Đức Địa Tạng là một vị đã chứng bực Đẳng Giác trải đến vô lượng A Tăng Kỳ kiếp rồi. Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề. Và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
Vì thế mới thiết lập tượng thờ Đức Phật Thích Ca chung với hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm, Địa Tạng và hợp xưng là Sa Bà Tam Thánh (hay Ta Bà Tam Thánh).
Do tâm lý của giáo đồ Phật Giáo phương Đông, khi sống gặp nạn khổ thì mong cầu vào sự cứu giúp của Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi chết đi thì trông cậy vào sự hóa độ của Bồ Tát Địa Tạng… Thế nên Tôn Tượng Sa Bà Tam Thánh được phổ truyền rất rộng rãi trong dân gian. Có ảnh hưởng rất sâu rộng trong đời sống văn hóa và tâm linh của người đời.
Ý Nghĩa Ta Bà Ha
HT.Tuyên Hóa
(Trích trong ‘Đại Bi Chú Giảng Giải
Trong chú Đại bi, câu Ta bà ha rất là quan trọng. Câu này được lặp lại đến mười bốn lần.
Ta bà ha. Hán dịch có sáu nghĩa. Bất kỳ chữ này xuất hiện ở bài chú nào cũng có đủ sáu nghĩa này.
Nghĩa thứ nhất là “thành tựu”.
Khi trì niệm câu chú này, tất cả sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được thành tựu. Nếu quý vị chưa có được sự cảm ứng khi hành trì, là do vì tâm chưa đạt đến sự chí thành. Nếu quý vị có tâm chí thành và có niềm tin kiên cố, thì chắc chắn sẽ được thành tựu. Nhưng chỉ cần móng khởi một chút tâm niệm không tin vào chú này, thì không bao giờ được thành tựu.
Nghĩa thứ hai là “Cát tường”.
Khi hành giả niệm câu chú này thì mọi sự không tốt lành, đều trở thành tốt lành như ý. Nhưng quý vị phải có lòng thành tín. Nếu quý vị có lòng thành tín hoặc nửa tin nửa ngờ khi trì chú này thì chư Bồ tát đều biết rõ. Vì thế nếu quý vị muốn mọi việc đều được đến chỗ thành tựu thì trước hết phải có niềm tin chắc thật. Ví như khi cha của quý vị có bệnh, muốn cha mình được khỏi bệnh thì quý vị phải hết sức thành tâm và chánh tín để trì tụng chú này mới có cảm ứng.
Hoặc khi quý vị nghĩ rằng: “Từ lâu mình chưa được gặp người bạn thân. Nay rất muốn gặp anh ta”. Quý vị niệm chú này một cách chí thành, liền gặp bạn ngay. Hoặc quý vị nghĩ: “Ta chẳng có người bạn nào cả, muốn có người bạn tốt”. Quý vị trì chú này một cách thành tâm và liên tục, liền có được bạn lành, ngay cả gặp được thiện tri thức.
Nghĩa thứ ba của Ta bà ha là “viên tịch”.
Khi các vị Tỳ kheo xả bỏ báo thân hoặc nhập Niết bàn thì được gọi là “viên tịch”. Nhưng ở đây, chữ “viên tịch” không có nghĩa là chết. Chẳng phải niệm câu chú Ta bà ha là để cầu sự viên tịch. Thế thì công dụng của câu chú này là gì?
“Viên tịch” có nghĩa là “công vô bất viên”. Là công đức của hành giả hoàn toàn viên mãn; “đức vô bất tịch” là đức hạnh của hành giả đạt đến mức cao tột cực điểm. Chỉ có chư Phật và Bồ tát mới biết được công hạnh rốt ráo tròn đầy ấy chứ hàng phàm phu không suy lường được.
Nghĩa thứ tư là “tức tai”, nghĩa là mọi tai nạn đều được tiêu trừ.
Nghĩa thứ năm là “tăng ích”, là sự tăng trưởng lợi lạc của hành giả. Khi niệm câu Ta bà ha thì công hạnh đều được tăng trưởng, hành giả sẽ đạt được chỗ lợi lạc an vui.
Nghĩa thứ sáu của câu này, tôi thiết nghĩ trong quý vị ít có ai biết được. Vì trước đây tôi chưa từng nói bao giờ.
Ta bà hà có nghĩa là “vô trú”. Nghĩa “vô trú” này nằm trong ý nghĩa của câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cang.
“Vô trú” nghĩa là không chấp trước, không vướng mắc hay bám chấp một thứ gì cả.
Tâm vô trú là không có một niệm chấp trước vào việc gì cả. Không chấp trước nghĩa là tâm tùy thuận với mọi việc, thấy mọi việc đều là tốt đẹp. Đây chính là trường hợp: “Vô vi nhi vô bất vi” (không khởi niệm tác ý nhưng điều gì cũng được thành tựu). Vô trú chính là vô vi theo nghĩa ở trên, và vô vi chính là vô trú.
Khi quý vị vừa móng khởi lên một niệm tưởng, đừng nên vướng mắc vào một thứ gì cả, đó là nghĩa thứ sáu của Ta bà ha. Quý vị đừng nên trụ vào các niệm tham, sân, si, mạn, nghi. Nếu quý vị có tất cả các tâm niệm trên thì phải nhanh chóng hàng phục chúng, chuyển hóa chúng để tâm mình không còn trụ ở một niệm nào cả. Hàng phục, chuyển hóa được những tâm niệm chúng sinh ấy gọi là vô trú. Dùng cái gì để chinh phục chúng? Dùng Bảo kiếm ấn pháp này để hàng phục. Quý vị nói rằng tâm quý vị bị đầy dẫy niệm tham chế ngự. Tôi sẽ dùng Bảo kiếm này để cắt sạch. Nếu tâm quý vị có đầy ma oán, tôi cũng sẽ dùng Bảo kiếm này đuổi sạch. Nếu tâm quý vị bị ma si mê chiếm đoạt, tôi sẽ dùng kiếm trí tuệ này chặt đứt chúng từng mảnh.
Tôi sẽ chặt đứt tất cả các loài ma ấy bằng Bảo kiếm Kim cang vương này, tức là dùng kiếm Trí tuệ để hàng phục. Nếu quý vị muốn hàng phục thiên ma ngoại đạo thì trước hết quý vị phải chuyển hóa được mọi vọng tưởng của mình. Khi quý vị chuyển hóa được vọng tưởng trong tâm mình, thì thiên ma ngoại đạo cũng được hàng phục luôn, cho dù chúng có muốn đến để quấy phá, chúng cũng chẳng tìm được cách nào để hãm hại được cả.
Trên đây là sáu nghĩa của Ta bà ha. Bất luận câu chú nào có chữ Ta bà ha đều mang đầy đủ sáu nghĩa trên.
TRÍCH DẪN VỀ CÕI TA BÀ :
Chương VI
Cõi Ta-bà: Sống, Chết và Tái sinh
Cõi ta-bà(tr. 157)
Ta-bà tượng trưng chu kỳ của sự hiệnhữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp(karma).Đấy làchiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu.
Bám víu vào sự sốnglà một sự hão huyền(tr. 157)
Thật hoài công khi muốn bám víu vàosự hiện hữu này, dù sống đến trăm tuổi ta cũng phải chết một ngày nào đó. Hơn nữagiây phút ra đi không thể biết trước được, nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Dù làngười giàu có, dù được những người chung quanh chăm sóc, sự sống này sớmmuộn cũngchấm dứt, không cứu vãn được. Của cải chẳng giúp được gì, cái chết của một ngườitỉ phú không khác cái chết của một con thú hoang.
Vô thường(tr. 157)
Trong chu kỳ hiện hữu,trên dòng nối tiếp bất tận của vô số kiếp tái sinh và trong khoảng thời gian củamỗi kiếp, bất thần tất cả vụt biến đổi. Tuy không có gì báo trước, thế nhưng hìnhnhư tất cả bỗng nhiên được tháo gỡ, địa vị xã hội sụp đổ, đoàn tụ trở thànhchia ly, sự sống trở thành cái chết. Hạnh phúc trôi nhanh. Tất cả những gì thuộcsở hữu của ta trở nên vô thường. Tấtcả những gì trước đây ta xem là thật cũng chỉ là vô thường.
Sân khấu của vô thường(tr. 157)
Tái sinh không phải là mộtcách tránh né cái chết. Trái lại, mỗi chúng ta trong từng ngày nhích lạigần hơnvới cái chết, tương tợ như những con vật được đưa đến lò sát sinh. Trongvũ trụnày, bất cứ gì đều bị chi phối bởi quy luật vô thường và sẽ tan rã. NgàiĐạt-laiLạt-ma thứ VII có nói như sau : "Những người còn trẻ, cường tráng và khoẻmạnh nhưng chết sớm chính là những vị thầy thuyết giảng cho chúng ta về vô thường.Vô thường tương tợ như một sân khấu, sau một màn trình diễn các diễn viên trở vàohậu trường thay y phục và sau đó lại trở ra ".
Nguồn gốc của sự sống hiện tại và tương lai(tr. 158)
Kinh sách Phật giáo giảngrằng tâm thức (esprit - spirit) không có khởi thủy, do dó sự tái sinh cũngkhông có khởi thủy. Phân tích cẩn thận và nghiêm túc sẽ thấy rằng tri thức(conscience - consciousness) không hề là nguyên nhân thực thể của vật chất, ngượclại vật chất cũng không phải là nguyên nhân thực thể của tri thức. Giả thuyếtduy nhất có thể chấp nhận được là nguyên nhân của tri thức là một tri thức khácđã có từ truớc. Đấy là một cách chứng minh và giải thích nguồn gốc của sự sống trongquá khứ và tương lai [sự tiếp nối của sự sống].
Tái sinh làm người là một sự quý hiếm(tr. 158)
Hãy tưởng tượng một cáiách [dùng cho bò kéo cày]bằng gỗ nạm vàng trôidạt trong một đại dương mênh mông. Có một con rùa già mù lòa sống trong đáy đạidương, cứ cách một trăm năm lại nổi lên mặt nước để thở một lần. Vậy thìcơ maykhiến con rùa chui đầu vào cái ách bằng vàng ấy là bao nhiêu? Đức Phật giảng rằngđược tái sinh dưới thể dạng con người cũng hiếm hoi như thế. [cái ách nạm vàng thật quý giá tượng trưng cho sự tái sinh làmngười, thế nhưng đồng thời nó cũng tượng trưng cho sự trói buộc và nhọc nhằn].
Tái sinh và đầu thai(tr. 158)
Chư Phật bảo rằng táisinh là một sự thật. Chính thế, đây là một sự thật hiển nhiên. Chúng ta tin rằngcó một thứ tri thức (conciuosness) thật tinh tế làm nguồn gốc phát sinh ra đủ mọithứ mà chúng ta gọi là sự sáng tạo. Tri thức tinh tế ấy hiện hữu trong mỗi cáthể từ lúc khởi thủy tiếp tục cho đến khi đạt được Phật tính. Đấy là gì mà ngườita gọi là sự "hiện hữu" (être - being). Nó có thể mang nhiều hình tướngkhác nhau, chẳng hạn như một con thú, một con người hoặc cũng có thể là một vịPhật. Đấy là nguyêntắc căn bản của giả thuyết tái sinh.
Theo dòng thời gian từ thế kỷ nàysang thế kỷ khác, tâm thức tinh tế chuyển đổi từ hình tướng này sang hình tướngkhác và tìm cách đạt được Phật tính. Nếutái sinh là một sự bắt buộc, đầu thai là một sự chọn lựa. Quyền được chọn lựa dànhriêng cho một số cá thể xứng đáng, chủ động được sự tái sinh của mình trong tươnglai, đấy là trường hợp của chư Phật và một số người khác nữa.
Khi tâm thức đạt được mộtcấp bậc phẩmtính nào đó mà chúng ta gọi là tri thức tinh tế, tâm thức không còn chếtnữa, ítnhất là theo ý nghĩa thông thường của chữ này. Tâm thức đó hàm chứa khả năng giúpnó có thể chọn lựa một thân xác khác để đầu thai. Đấy là trường hợp đặc biệt củacác vị bồ-tát (boddhisattva). Dù đangđứng ở ngưỡng cửa của niết-bàn(nirvana), người bồ-tát cũng không bướcvào, vì họ nhất quyết lưu lại trong cõi ta-bà tức là chu kỳ hiện hữu để giúp đỡchúng ta.
Dưới cái nhìn của chúng tôi [những người Phật giáo],tái sinh và đầu thai là một điềuhiển nhiên, một hiện tượng vật lý, có thật như những hạt nguyên tử.
Sự chối bỏ(tr. 160)
Tất cả mọi cảm nhận - thích thú hayhạnh phúc trong chu kỳ hiện hữu - dù mãnh liệt hay tuyệt vời đến đâu đềuchấm dứtmột cách thảm thương. Hãy nghĩ đến bản chất hư ảo của chúng để hiểu rằngnên chấmdứt ngay cái vòng lẩn quẩn đó, dù cố gắng tiếp tục thêm cũng chẳng lợi ích gì.Vì thế hãy phát động trong lòng sự ghê tởm sâu xa về chuỗi dài thử tháchđó [tức chu kỳ hiện hữu] và quyết tâm từ bỏ nó. Vậy chúngta thử tìm hiểu thật chính xác xem đâu là nguyên nhân mang lại các nỗi khốn khổvà đớn đau ấy.
Sự tin tưởng do bảnnăng về một cái tôi độc lập(tr. 160)
Khổ đau không phải vô cớ xảy ra, thếnhưng nó cũng không phải là tác phẩm của một vị Trời toàn năng nào cả. Đấy là sảnphẩm phát sinh từ những lầm lẫn và những hành động thúc đẩy bởi các thể dạngtâm thức không chủ động được của chính mình. Nguyên nhân trước hết của khổ đaulà vô minh, đấy là sự hiểu biết sai lạc về bản chất của mọi hiện tượng, tự xemmình hiện hữu một cách tự tại. Vô minh phóng đại cương vị của các hiện tượng vàtạo ra các ranh giới phân biệt ta với người khác. Tự xem mình quý giá nhấttrong vũ trụ khiến ta đối xử với người khác như chính ta là một vị Phật.Trênthực tế thái độ đó chưa bao giờ mang lại hạnh phúc lâu bền.
Tính cách lừa phỉnhcủa các thể dạng bên ngoài(tr. 160)
Khi nào ý thức được các hiện tượngchỉ là sự lừa phỉnh khi đó ta mới đủ khả năng để hiểu là chúng không hàmchứa mộtsự hiện hữu tự tại nào. Sự phủ nhận đó không có nghĩa là loại bỏ một thứgì đã từnghiện hữu trước đây, đấy chỉ là cách đơn giản thừa nhận những gì chưa baogiờ hiệnhữu sẽ đương nhiên không hiện hữu. Vì lầm lẫn chúng ta xem các thể dạng bên ngoàilà thật. Thế nhưng các thể dạng bên ngoài không tương quan với bất cứ một thựcthể nào.
Ảo giác khiến ta tưởnglầm sợi giây thừng là con rắn(tr. 161)
Hãy lấy thí dụ một cuộn giây thừngvào lúc nhá nhem tối, ta tưởng lầm đấy là một con rắn. Sự nhận biết sai lầm chorằng sợi giây thừng là con rắn gây ra trong tâm thức một số phản ứng chẳng hạnnhư sự sợ hãi, sợ hãi làm phát sinh ra hành động thí dụ như tông cửa phóng chạyhoặc tìm cách giết con rắn. Tất cả các hành động ấy xảy ra chỉ vì một sựlầm lẫnnhỏ nhặt. Cũng thế chúng ta tưởng lầm thân xác và tâm thức của mình hàm chứa mộtcái tôi nào đó, từ đấy sinh ra mọi thứ sai lầm khác chẳng hạn như dục vọng, giậndữ. Từ thái độ ích kỷ tức bám víu vào một cái tôi ta phân biệt mình với ngườikhác.
Tất cả đều thuộc vàomột tổng thể(tr. 161)
Nếu một vật thể nào đó không thể phântách ra nhỏ hơn nhất định vật thể ấy mang tính cách độc lập, thế nhưng chẳng cóbất cứ gì không thể phân chia được. Bất cứ gì lệ thuộc vào các thành phần tạora nó đều được chỉ định dựa vào thể dạng tương kết giữa các thành phần ấy, và sựchỉ định ấy chỉ hiện hữu xuyên qua ý niệm của ta. Nếu như tất cả các thành phầnhiện hữu một cách cụ thể [đúng như chúng đã hiển hiệnra], hiện thực phải được xác nhận một cách minh bạch bằng các phương phápphân giải. Thí dụ, theo quy ước người ta chấp nhận sự hiện hữu của "cái tôi"biết biểu lộ vui thích và cảm nhận được đớn đau, thế nhưng khi sử dụng phép phângiải để khảo sát và tìm kiếm "cái tôi" ấy thì không thấy nó đâu cả. Dùcó xoay chiều đổi hướng phép phân giải ta cũng không thể tìm thấy "cái tôi"ở bất cứ nơi nào. Không có một tổng thể nào khác hơn các thành phần tạo ra nó,[câu này có nghĩa là không tìm thấy một thành phần nàotượng trưng cho "cái tôi" trong một tổng thể, trong số tất cả các thànhphần tạo ra một cá thể (tổng thể) con ngưởi gồm thân xác và tâm thức không tìmđược một thành phần nào gọi là "cái tôi"].
Sự tiếp nối liên tụccủa tri thức(tr. 162)
Dù thân xác chỉ là tổng hợp củanhiêu thành phần hóa học và vật lý, thế nhưng vẫn có một tác nhân tinh tế rạngngời và tinh khiết tạo ra sự sống của các sinh linh. Tác nhân ấy không mang tínhcách vật chất nên không cân đo được, thế nhưng không phải vì thế mà nó không hiệnhữu. Theo quan điểm Phật giáo, tri thức (conciousness) được hiểu là phi-vật-chất.Nhất định phải có một nguyên nhân sinh ra tri thức, nguyên nhân ấy thuộcbản thểtinh anh tạo ra sự sống, do đó tri thức cũng có cùng một bản thể với sự sống. Nếukhông có một khoảnh khắc tri thức xảy ra trước đó sẽ không có một tri thức nào xảyra tiếp theo sau, dù bất cứ dưới hình thức nào, [khinào có một khoảnh khắc tri thức xảy ra trước, sau đó mới có một khoảnh khắc trithức khác tiếp nối theo sau]. Tri thức không phát sinh từ hư vô, nó cũngkhông tan biến để trở thành hư vô. Vật chất cũng không thể trở thành trithức. Khinào hiểu được không có một sự dừng lại [chấm dứt]nào của sự tiếp nối tri thức trong một kiếp sống, khi đó ta mới nhận thấy tínhcách hợp lý (lôgic) của luận cứ cho rằng sau cái chết còn có một sự sốngkhác.[tri thức tiếp nối liên tục hết kiếp nay sang kiếpkhác không ngưng nghỉ, khái niệm đó cho thấy các kiếp sống (chết - tái sinh)thay nhau hiển hiện trên dòng tiếp nối đó, vì thế sự tiếp nối liên tục của trithức không thể đứt đoạn (ngưng nghỉ) trong một kiếp sống]
Tâm thức là gì(tr. 162)
Khảo sát cẩn thận sẽ thấytâm thức (esprit- spirit) là một thứ gì đó tương tợ như một không gian trong suốt, hoàn toàn trốngkhông, trong đó tất cả mọi sự hiển hiện đều đình chỉ [cónghĩa là tất cả mọi tư duy và xúc cảm đều là những sự hiển hiện, do đó chúng khôngphải là các thành phần tự tại của tâm thức, người ta thường lầm tưởng những sựhiển hiện ấy là "cái tôi"].
Tư duy là gì(tr. 162)
Đối với cá nhân tôi, tôi tin chắc tấtcả mọi hiện tượng trước hết đều phát sinh từ tư duy (pensée - thought) [chủ trương của học phái Duy thức].Tư duy tạo ra nhiềutác động hơn hẳn so với vật chất. Theo triết học Phật giáo, tư duy dù kỷcươnghay không đều làm phát sinh ra nghiệp (karma), nghiệp nhấtthiết ảnh hưởng đếncác yếu tố bên trong, các yếu tố này sau đó mới tác động vào các yếu tố bênngoài.
Nghiệp là gì(tr. 163)
Nghiệp(karma)có nghĩa là một"hành động". Nghiệp tác độngbằng ba cách : thân xác, ngôn từ và tâm ý [khái niệm vềba cửa ngõ trong giáo lý Phật giáo : thân, khẩu, ý]. Nghiệp tạo ra ba thứhậu quả : đạo hạnh, không đạo hạnh và trung hòa. Quá trình vận hành của nó gồmhai giai đoạn : thí dụ ta suy tính trong đầu sẽ làm một việc gì đó, đấy là một hànhđộng duy ý ; sau đó sự suy tính chuyển thành hành động trên thân xác hoặc ngôntừ, đấy là hành động thực thi đã được suy tính trước [cốtình]. Những hành động tiêu cực nhất định mang lại khổ đau, các hành độngtích cực đương nhiên mang lại tốt đẹp. Các hành động tạo nghiệp theo đuổi chúngta từ kiếp này sang kiếp khác. Tích lũy được các hành động tích cực sẽ mang lạilợi ích trong tương lai và các kiếp sống về sau, ngược lại nếu liên tiếpphạm vàonhững hành động tai hại nhất định ta sẽ phải nhận lãnh các hậu quả phát sinh từnhững hành động đó.
Quy luật nguyênnhân và hậu quả (tr. 163)
Nếu muốn biết ta đã làm những gì trướcđây chỉ cần nhìn vào thân xác ta hôm nay sẽ rõ [thânxác đó xinh đẹp, khoẻ mạnh, thông minh..., hay xấu xí, bệnh tật, đần độn...?]Nếu muốn biết sau này ta sẽ ra sao, hãy quan sát xem tâm thức ta đang vận hànhnhư thế nào.
Thích thú và đớnđau(tr. 163)
Thích thú và đớn đau là hậu quả. Bảnchất khác biệt và đa dạng của chúng cho thấy chúng lệ thuộc vào nhiều nguyên nhânkhác nhau. Vì thế muốn tìm thấy sự thích thú, ta phải tạo ra các nguyên nhân làmphát sinh ra nó, muốn lẫn tránh khổ đau ta cũng phải tìm cách loại bỏ nguyên nhânlàm phát sinh ra khổ đau. Khi một nguyên nhân mang lại khổ đau được ghi khắc trêndòng tiếp nối liên tục của tri thức, dù thù ghét khổ đau cách mấy ta cũng sẽ phảiđối đầu với nó.
Lầm lỗi kéo theo sựtrừng phạt (tr. 164)
Hậu quả của các hành độngtai hại tùythuộc vào cường độ của ảo giác làm phát sinh ra chúng. Hậu quả tương xứng vớinguyên nhân của nó. Thí dụ, tái sinh trong một cõi thấp hơn vì vi phạm vào hànhđộng sát nhân chẳng hạn, kể cả trường hợp vẫn còn giữ được thể dạng con người đinữa thì sự hiện hữu đó sẽ rất ngắn. Phạm vào hành động trộm cắp sẽ tái sinhtrong cảnh thiếu thốn, phạm vào hành vi dục tính thiếu đạo hạnh sẽ gặp người phốingẫu ngoại tình ; lầm lỗi kéo theo sự trừng phạt, bất hòa đưa đến chia rẽ giữabạn bè, cứ tiếp tục như thế. Quán nhận sai lầm sẽ tạo ra tình trạng hoang mangbất định hướng.
Hanh phúc hay khổ nhọc trong hiện tạilà hậu quả của những hành động mà ta thực thi trong quá khứ, không hơn không kém.
Quy luật chi phối sựtái sinh(tr. 164)
Vô số kiếp tái sinh đang chờ đợi ta,các kiếp ấy có thể tốt hay xấu. Không thể tránh được hậu quả của nghiệp.Khôngthể đảo ngược các hành động. Ta sẽ gặt hái hậu quả một ngày nào đó. Khi một hànhđộng được thực thi, nguyên nhân sẽ sinh ra, nó hiện hữu và tăng trưởng cho đếnkhi nào tạo ra hậu quả. Hành động dù được thực thi từ nhiều kiếp trước, tác độngcủa nó vẫn luôn tiềm tàng, dù trải qua những khoảng thời gian thật lâu dài.
Chìa khoá mang lạisự may mắn và thiếu may mắn(tr. 165)
Các thành phần cá nhân rất khác biệtnhau trong tập thể con người. Nhiều người luôn gặt hái được thành công, một sốkhác chỉ gặp toàn thất bại. Một số người dù không mong muốn nhưng cứ gặpđủ mọithứ bất hạnh, trái lại một số khác tưởng chừng khó tránh khỏi những chuyện tệ hại,thế nhưng chẳng có gì xảy ra. Nêu lên các sự kiện trên đây để thấy rằng không bắtbuộc mọi chuyện phải xảy ra theo như ý mình muốn. Đôi khi ta cố gắng tìmđủ mọicách để mang lại thành công thế nhưng chỉ thấy toàn thất bại. Người ta nghĩ rằngcó người may mắn có người không, thế nhưng may mắn phải có một lý do tứcphải cómột nguyên nhân nào đó tạo ra nó. Theo Phật giáo đấy là hậu quả mang lạitừ cáchành động thực thi trong kiếp trước hay trong kiếp sống hiện tại. Kể cả trườnghợp phải đối đầu với nghịch cảnh, thế nhưng nếu tiềm năng [của nghiệp tích cực mang lại sự "may mắn"]đãchín, sức cố gắng sẽ mang lại thành công.
Trách nhiệm(tr. 165)
Hậu quả phát sinh từ nghiệp thật sự chỉcó ý nghĩa tốt đẹp khi nào chúng mang lại lợi ích góp phần vào sự cải thiện đờisống xã hội và giúp chống lại các kẻ thù nguy hiểm nhất tức vô minh, bámvíu vàhận thù. Dù tin hay không tin, trên thực tế quy luật nhân quả luôn tác động vàocuộc sống thường nhật của ta. Khi tất cả mọi người đều ý thức được tính cách chặtchẽ của quy luật nhân quả, có lẽ khi đó cũng không cần đến cảnh sát vì tâm thứcsẽ giữ vai trò đó. Vì thế, phương pháp hiệu quả nhất ngăn ngừa sát nhân là tự mìnhphải cảnh giác lấy mình. Khi nào ý thức được tương lai hoàn toàn nằm trong taymình, khi đó ta sẽ không phạm vào tội sát nhân [có thểáp dụng cho những người gây ra chiến tranh và điều khiển các cuộc tàn sát].Biến cải nội tâm sẽ giúp tránh được các hành động phạm pháp mang lại sự an bìnhtrong xã hội, thế nhưng muốn biến cải nội tâm phải hiểu được bản chất của chínhmình là gì.
Tất cả đều bắt nguồntừ tâm thức(tr. 166)
Các sự kiện, các biến cố nhất thiếttùy thuộc vào động cơ thúc đẩy làm phát sinh ra chúng. Hãy lấy bối cảnh gia đìnhđể làm thí dụ : nếu mọi người đều cư xử tốt đẹp với nhau không khí gia đình sẽêm ấm, nếu một người bực dọc tức thời căng thẳng sẽ phát sinh. Dù bữa cơm có thịnhsoạn, chương trình truyền hình buổi tối thật lý thú cũng không đủ sức mang lại sựan bình trong gia đình. Bối cảnh tùy thuộc vào thể dạng tâm thức bên trong nhiềuhơn các điều kiện môi trường bên ngoài.
Cộng nghiệp(tr. 166)
Nhiều chúng sinh lệ thuộcvào các bốicảnh thời gian và không gian khác nhau, thế nhưng họ có thể tích lũy mộtthứnghiệp tương tợ nhau. Họ tái sinh chung trong một thời đại và trong cùngmột nơichốn. Khổ đau mà họ gánh chịu là kết quả mang lại từ cộng nghiệpcủa họ [thí dụ nhiều cá thể cùngtái sinh trong một xứ sở nào đó, họ chịu chung những đại nạn xảy ra cho xứ sở ấy,đấy gọi là cộng nghiêp. Trong một mức độ nhỏ hơn chẳng hạn như tai nạn máy bay,hành khách thật đa dạng thế nhưng tất cả gánh chịu một hậu quả giống nhau]
Tác động do mỗi ngườitạo ra đối với môi trường chung(tr. 166)
Một cách tổng quát người ta có thể bảorằng sự tiến hóa của vũ trụ nhất thiết liên hệ với nghiệpcủa chúng sinh. Sự kiện này thật vô cùng phức tạp, thế nhưngta thử lấy thí dụ về sự thay đổi khí hậuchẳng hạn. Hãy tưởng tượng ra một tập thể con người bị chi phối bởi hận thù vàgiận dữ, tôi nghĩ rằng thể dạng xúc cảm tiêu cực đó tác động vào môi trường chungquanh tạo ra nóng bức và khô cằn [Trungđông ?].Nếu sự bám víu và ham muốn của tập thể quá mạnh và lan rộng sẽ tạo ra ẩmthấphoặc ngập lụt [Trung quốc, Nam Mỹ, Áchâu...?].Tôi chỉ muốn nêu lên các suy diễn trên đây thế thôi và không khẳng định gì cả.Dù là một cá thể hay một tập thể, sự sinh hoạt, thái độ và tâm thức của từngngười, ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khácđều góp phần tác động vào môi trường chung.
Ai tạo ra vũ trụ (tr. 167)
Hiên tượng tiến hóa nhất định phải cómột nguyên nhân, thế nhưng sự giải thích nguyên nhân đó lại có hai cách khácnhau. Hoặc ta chấp nhận vũ trụ do Trời sáng tạo, điều đó mang lại nhiều mâu thuẫnvì nhất thiết khổ đau và những gì xấu xa cũng phải do Trời sáng tạo. Hoặc có thểgiải thích là tiềm năng cộng nghiệp của vô tận chúng sinh có giác cảm làm phátsinh ra vũ trụ, tượng trưng cho một môi trường chung thích nghi với sự hiện hữucủa các sinh linh ấy. Vũ trụ mà chúng ta đang sống được tạo dựng từ các hành độngvà tham vọng của chính chúng ta. Và cũng chính vì thế mà chúng ta đang hiện diệntại nơi này. Ít ra điều đó cũng tỏ ra hợp lý (lôgic). [mộtcách giải thích vô cùng cao siêu, cần mở thật rộng tâm thức vượt lên trên địnhkiến và các khái niệm quy ước mới nắm vững được chiều sâu của cách lý luận trênđây, nên liên tưởng đến học thuyết duy thức].
Bản chất không tì vếtcủa tâm thức (tr. 167)
Nếu các thứ nọc độc của tâm thức -như bám víu, hận thù và vô minh - là những thành phần tự tại của tâm thức, sẽ khôngcó cách nào loại bỏ chúng khỏi tâm thức, và nếu đúng như thế hận thù chẳng hạn sẽthường xuyên ngự trị trong ta, nó chỉ chấm dứt khi nào tri thức chấm dứt; đốivới các trường hợp bám víu và dục vọng cũng thế. Thật ra thì không đúng,ta cóthể loại trừ tận gốc bám víu, hận thù và vô minh bởi vì chúng không thuộc vàothành phần tự tại của tri thức, điều đó cho thấy bản thể của tâm thức không hề bịcác khiếm khuyết [bám víu, hận thù và vô minh] làmcho sứt mẻ.
Bản chất rạng ngườicủa tâm thức(tr. 168)
Tâm thức mang bản chất hoàn toàn rạngngời và "sáng suốt", vì thế sự giải thoát có thể thực hiện được. Tìmthấy bản thể đích thật của tâm thức có nghĩa là đạt được sự giải thoát.
Tánh không(tr. 168)
Con người sinh ra và chếtđi. Khổ đau,hạnh phúc đến với họ rồi cũng ra đi. Các biến đổi ấy hiện ra và biến mất. Nếukhổ đau và phúc hạnh đúng là những sự kiện độc lập chúng sẽ bất biến, tức khôngđổi thay. Nếu phúc hạnh, khổ đau và ba thứ nọc độc là bám víu, hận thù và vôminh không lệ thuộc vào những nguyên nhân bên ngoài, chúng sẽ giữ nguyênnhư thếkhông hề biến đổi. Thế nhưng [không đúng như thế]tất cả các hiện tượng ấy chỉ có thể hình dung được bằng thể dạng tánh không vàvô ngã của chúng. Do đó tất cả mọi hiện tượng đều được tạo dựng bởi thựcthể trốngkhông, [nói cách khác] sự tạo dựng đó chỉ là cácbiểu tượng hay cách hiển hiện của thực thể trống không.
Tánh không và con số0 (tr. 168)
Tánh không tương quan vớisự trống không, sự vắng bóng hoàn toàn của bất cứ một sự hiện hữu nội tại nào.Tôi thường giải thích tánh không tương tợ như con số không (0). Con số 0cónghĩa là không có gì cả, thế nhưng nếu không có nó ta không thể tính toán gì được.Vì thế con số 0 là một thứ gì đó, đồng thời cũng không có gì cả. Sự trống khôngcũng tương tợ như thế. Trống không là trống không, thế nhưng đồng thời nó cũnglà nền móng của tất cả.
Không gian và vụ nổ lớn Big Bang(tr. 169)
Rất nhiều triết gia Đôngphương, đặc biệt là các triết gia Phật giáo, nêu lên bốn yếu tố : đất, nước, lửavà khí, kèm theo với chúng là không gian. Bốn yếu tố đầu tiên sở dĩ tồn tại lànhờ vào yếu tố thứ năm tức không gian làm cơ sở chuyển tải cho chúng.
Theo một số kinh sáchPhật giáo chẳng hạn như kinh KalachakraTantra[kinhThời luân], không gian hay không trung (ether) không phải là một sự trốngkhông hoàn toàn hay một sự trống rỗng không có bất cứ gì trong đó. Khônggianđược cấu hợp bởi những "hạt vi tế trống không". Các hạt vi tế trốngkhông làm phát sinh ra bốn yếu tố dưới các thể dạng vật chất tiên khởi thậttinh tế và sau đó mới trở nên thổ thiển hơn (tức là khí, lửa, nước và đất), ngườita gọi đấy là quá trình của sự hình thành. Sau đó chúng tan biến dần, bắt đầu từthể dạng vật chất thô thiển nhất (đất, nước, lửa và khí) chuyển sang cácthể dạngvật chất thật tinh tế để hội nhập trở lại với các hạt vi tế trống không,đấy làquá trình của sự tan biến. Không gian hay tánh không toàn cầu làm cơ sở vận hànhcho cả hai quá trình.
Vụ nổ lớn Big Bang tượngtrưng cho sự hình thành của vũ trụ cho thấy có những điểm tương đồng vớitánhkhông toàn cầu [trong Phật giáo].Các hạt vi thểtinh tế nhất do các ngành khoa học vật lý tân tiến khám phá cho thấy khátương đồngvới những gì mà chúng ta [những người Phật giáo]gọi là các "hạt vi tế trống không". Vì thế tôi thấy hết sức quan trọngphải nghiên cứu về các sự tương đồng trên đây.
Nguồn gốc của vũ trụ(tr. 169)
Phật giáo cho rằng thếkỷ chúng ta đang sống là hậu quả để lại từ các thế kỷ trước, có thể tiếptục sựsuy luận trên đây ngược về khởi thủy của thời gian, tức cách nay khoảng hai mươihay hai mươi lăm tỉ năm. Thế nhưng tại sao và bằng cách nào vụ nổ Big Bang đã xảyra ? Điều đó không ai trả lời được. Đối với tôi có hai cách giải thích tuy cảhai không thể chấp nhận được. Cách thứ nhất cho rằng không có nguyên nhân nào cả,mọi sự vật tự nó xảy ra như thế. Theo tôi thì cách giải thích này không hiểu nổi.Đối với Phật giáo bất cứ một hiện tượng nào cũng phải có một nguyên nhânlàm phátsinh ra nó. Cách giải thích thứ hai mang tính cách thần thánh : vào một ngày đẹptrời nào đó Trời quyết định sáng tạo ra thế giới. Chúng ta cũng không thể chấpnhận sự giải thích này. Theo kinh sách Phật giáo những hạt vi thể tinh tế hiệnhữu từ trước trong không gian, trước khi vũ trụ được hình thành, và hiệnthờichúng vẫn đang hiện hữu. Các hạt vi thể tinh tế mang đặc tính tinh thần cấu tạora các sinh linh và làm phát sinh ra Big Bang. Tại sao ? Bằng cách nào ?Bất cứmột vũ trụ nào sau khi được phát sinh sẽ biến mất sau đó. Vô số chu kỳ [sinh diệt] tiếp nối nhau bất tận.Thế nhưng vũ trụtrong tổng thể của nó tức là "vũ-trụ-tâm-thức" vẫn luôn hiện hữu. Ngườita cũng có thể cho rằng "tâm-thức-tinh-tế" trên đây ["vũ-trụ-tâm-thức"] hàm chứa một sứcmạnh [tiềm năng] vô song, đấy chính là nguyên tắc sáng tạonguyên thủy. Một số chúng sinh vào một lúc nào đó có thể tận hưởng sự hiện hữucủa vũ trụ ấy [khi đã đạt được giácngộ]. Vì thếmà vũ trụ ấy đang hiện hữu. [giác ngộ là khả năng hộinhập với sức mạnh vô song của "vũ-trụ-tâm-thức"].
"Hình tướng là trống không, trống không là hình tướng" (tr.170)
Chúng ta là trốngkhông, hay ít ra các chất liệu cấu tạo ra chúng ta là trống không. Cũng cần nhắclại là chữ trống không không có nghĩa là "hư vô". Một số người hiểusai cho rằng Phật giáo chủ trương chủ nghĩa "hư vô"("nihilism"). Theo Phật giáo, thế giới trong đó gồm có chúng ta là mộtthể chất lưu chuyển, một dòng chảy của các thể dạng. Điều đó không có nghĩa làkhông có gì cả. Tất cả mọi sự vật đều lệ thuộc vào nhau. Không có gì hiện hữuriêng biệt được. Các vật thể này gánh chịu tác động của các vật thể khác, khiến chúng xuất hiện, hiện hữu, biếnmất và lại hiện ra. Thế nhưng tự chúng chúng không thể tự hiện hữu. Vì thế hìnhtướng là "trống không", có nghĩa là hình tướng không thể tách rời mộtcách riêng rẽ ra được, nó không thể độc lập. Hình tướng này lệ thuộc vàovô sốhình tướng khác [để hiện hữu].
Trống không là hình tướngbởi vì bất cứ hình tướng nào cũng bắt buộc hình thành trong cái trống không đó,tức trong thể dạng vắng mặt của sự hiện hữu nội tại. Trống không tham gia vàoviệc hướng dẫn hình tướng, ["Hìnhtướng là trống không, trống không làhình tướng" là một trong những câu nổi tiếng nhất trong Bát nhã Tâm kinh].
Con đường trực tiếp : thuyết thần bí, du-già, thiền định và thể dạng xuấtthần(tr. 171)
Tư duy thuộc lãnh vực kháiniệm mang tính các hạn hẹp, như chúng ta đều biết. Chính vì thế hầu hết các tínngưỡng trên đường dò tìm sự hiểu biết [bằng khái niệm]đều vấp phải thật nhiều khó khăn nan giải, vì thế tất cả đều tìm cách dựa vào một"con đường trực tiếp" hơn. Trên con đường đó người ta thấy xuất hiệnđủ các phương pháp như : thần bí, du-già, một số hình thức thiền định, sự xuấtthần (extaxy) với mục đích mang lại sự giác ngộ. Phương pháp tiếp cận trực tiếpcủa Phật giáo Tây tạng dựa vào "kinh nghiệm" có thể đưa chúng ta trở vềcội nguồn của thế giới, thế nhưng phương pháp này thật vô cùng gay go, đòi hỏi phảicó một tâm thức thật tinh luyện đạt đến cấp bậc cao nhất của sự tinh tế,giúpnó tách rời ra khỏi các chu kỳ thời gian [thời giantheo Phật giáo mang tính cách chu kỳ, chùkỳ thời giannêu lên trong câu trên đây ám chỉ các chu kỳ sinh diệt của cácvũ trụ nối tiếp nhau, xin xem lại mục Nguồngốc của vũ trụtrình bày trên đây]. Một số bạn hữu của tôi hiện cònsống đã đạt được thể dạng ấy [Đức Đạt-lai Lạt-makhông bao giờ tuyên bố là Ngài thực hiện được bất cứ một điều gì "siêunhiên", Ngài chỉ là một nhà tu hành rất bình dị và Ngài chỉ kể ra các phépmầu nhiệm mà người khác làm được].
Sự xuất thần và phúc hạnh (tr.171)
Khi xuất thần (extaxy)ta đạt được một trạng thái tâm linh thật tinh tế ; khi cường độ của nó đạt đến điểmtột đỉnh ta có thể cảm nhận với tất cả niềm hân hoan thể dạng vắng bóng của sựhiện hữu nội tại, tức là tánh không, sự trống không.
Thân xác và chiêm bao(tr. 171)
Thừa hưởng hậu quả từ nghiệpcủa mình trong quá khứ, một sốngười thực hiện được những việc khác thường trong kiếp sống hiện tại. Chẳng hạnnhư các trường hợp tâm thức xuất khỏi thân xác, sở dĩ đạt được khả năng đó lànhờ vào các thành quả tu tập từ các kiếp trước. Các khả năng trên đây phát lộ nhưlà năng khiếu sẵn có. Tuy nhiên trong một số trường hợp đấy là kết quả do sự tutập ngay trong kiếp sống này mang lại. Thiết nghĩ cũng nên xác nhận rõ ràng"thân ảo mộng" [hiện tượng "xuất hồn"]không phải là một sự quán thấy tâm thần nhưng đấy là một thân xác tinh tế thậtsự, có khả năng tách rời khỏi thân xác thông thường và cảm nhận được thếgiới bênngoài đúng như chúng ta cảm nhận trong trạng thái bình thường. Đây là một đườnghướng khảo cứu quan trọng nên quan tâm.
Khoa học và tri thức (tr.172)
Các khảo cứu khoa học sởdĩ tiến hành được là nhờ vào các dụng cụ và máy móc. Các khảo cứu mang tính cáchtâm linh trái lại tiến hành nhờ vào các kinh nghiệm nội tâm và thiền định. Thiếtnghĩ cần phải phân biệt thật minh bạch giữa những gì khoa học bó tay và những gìkhoa học chứng minh là không hiện hữu. Phải hiểu rõ có vô số hiện tượng rất thầnbí. Giác quan của con người có khả năng cảm nhận thật giới hạn, vì thế ta khôngthể bảo rằng bên ngoài khả năng nhận biết của ngũ giác không có gì cả.
Đối với việc tìm hiểutri thức (consciousness), rất nhiều sinh linh [ám chỉcác sinh linh ngoại lệ, các thánh nhân] kể cả một số người, từ thật nhiềuthế kỷ trước đã từng cảm nhận trực tiếp được tri thức, thế nhưng ngày nay chúngta vẫn còn mù tịt không hiểu tri thức là gì [tức khônghiểu phương thức vận hành và bản chất của tri thức là gì]. Các sựnhậnbiết của tri thức không mang hình tướng, không màu sắc, đấy là các hiện tượngkhông thể nhận biết bằng các phương phápthông thường dùng để khảo sát các hiện tượng bên ngoài.
Phật giáo có phải là một khoa học tâm linh hay không ?(tr. 173)
Các tiến bộ khoa học vàkỹ thuật mở rộng thêm không gian cho chúng ta. Thật tuyệt vời ! Từ lúc còn nhỏtôi đã say mê lãnh vực khảo cứu khoa học này ; các khám phá về không gian thậtvô cùng lợi ích cho nhân loại. Thế nhưng các khảo cứu nội tâm cũng đáng cho chúngta chú ý. Trong lãnh vực tâm thức còn nhiều khoảng không gian rộng lớn chờ đượckhám phá.
Nhiều khoa học gia khôngxem Phật giáo như một tôn giáo cứng nhắc mà họ đánh giá Phật giáo như một ngànhkhoa học, và cũng nên hiểu đấy là một ngành khoa học vô cùng phức tạp. Phươngpháp tiếp cận của Phật giáo căn cứ vào thực nghiệm giống như tất cả các ngànhkhoa học khác.
Niết-bàn là gì? (tr. 173)
Niết-bàn là một thứ " phẩm tínhnào đó của tâm thức". Bản chất con người chỉ bị ô nhiễm tạm thời. Sự giao tiếpbình thường giữa chúng ta với cái mà chúng ta gọi là hiện thực hoàn toànbị lệchlạc. Luôn nên nhớ đến sự kiện này. Vì căn cứ trên ảo giác nên sự tương giao đó [giữa ta và hiện thực]sai lầm từ căn bản. Chỉ khinào chúng ta ra thoát được mọi ảo giác khiấy chúng ta mới thấy sự kiện trên đây là một sự thật. Phải loại bỏ sự ô nhiễmđó [tức là sự cảm nhận sai lầm về hiện thực] rakhỏi tâm thức, và điều đó có thể thực hiện được như chúng ta đều biết [tức là đạt được giác ngộ, mục đích tối thượng của Phậtgiáo].
Sau khi thực hiện được sựtinh khiếthóa gọi là giác ngộ trên đây, tâm thức sẽ đạt được thể dạng phẩm hạnh cao nhất gọilà niết-bàn. Trong thể dạng đó tâm thứchóa thành trí tuệ và thoát ra khỏi các chu kỳ hiện hữu. Đã từng có rất nhiều vịhiền triết đạt được niết-bànvà họ chỉcần tu tập trong một kiếp sống duy nhất.
Cái chết và ánhsáng trong suốt(tr. 173)
Cái chết nhất định sẽ đếnvới ta mộtngày nào đó không sai chạy. Nếu phí phạm những giây phút tốt đẹp nhất đời mình vìnhững việc phù phiếm, không chuẩn bị cho cái chết, khi giây phút cuối cùng đã đếnta sẽ mất hết khả năng suy nghĩ vì chỉ biết lo âu. Quá sợ hãi ta không còn đủtrầm tĩnh để tu tập nữa.
Khi giây phút cuối cùng gần kề ta phảitập trung tư duy vào những gì thiết thực. Thể dạng tâm thức đúng vào lúcđó sẽquyết định cho những gì xảy ra sau này. Những giây phút cuối cùng hàm chứa mộtsức mạnh quan trọng hơn cả những gì xứng đáng mà ta thu góp trong suốt cuộc sống.Vì thế phải sử dụng thiền định để tìm hiểu quá trình của cái chết và tậpcho quendần với nó. Chính tôi thường xuyên tu tập theo cách ấy. Mỗi ngày tôi sử dụng thiềnđịnh để vượt qua tám giai đoạn tan biến của cái chết.
Quá trình của cái chết khởi đầu bằngsự tan biến của cấu hợp hình tướng ; các thành phần đất suy yếu, thành phần nướcthay thế và trở thành cơ sở chống đỡ cho sự hiểu biết bình thường. Ngườihấp hốicó cảm giác như thân xác bị lún sâu xuống đất [cảm thấythân xác cứng đơ và rất nặng]. Hai mắt hoa lên [khảnăng thị giác suy yếu]. Người hấp hối có cảm giác nhìn thấy một ảo ảnh nàođó bên trong nội tâm. Sau đó cấu hợp xúc giác tan biến [không còn cảm thấy quần áo mặc trên người, lưng chạm xuống giường cũng khôngbiết, người khác hay vật gì va chạm vào thân xác cũng không hay biết].Tiếptheo đó sức mạnh của thành phần nước giảm xuống, thay vào đó thành phần lửa trởnên lấn lướt hơn. Miệng khô, mắt đờ đẫn. Nội tâm quán thấy những hình ảnh giốngnhư khói.
Trong giai đoạn thứ ba, cấu hợp của khảnăng nhận biết tan biến. Thể dạng lửa không còn chống đỡ được tri thức, thể dạngkhí thay thế vai trò đó và trở nên quan trọng hơn. Đối với môi trường chungquanh người hấp hối không còn nhận biết được người thân. Nội tâm quán thấy nhữnghình ảnh giống như đom đóm, tương tợ như các đốm lửa bắn ra từ một chiếcpháo bông.
Trong giai đoạn thứ tư, các cấu tạotâm thần tan biến. Thể dạng gió (khí) yếu dần không còn chống đỡ được tri thức.Triệu chứng bên ngoài là ngưng thở. Triệu chứng bên trong là cảm giác nhìn thấymột ngọn lửa màu đỏ nhạt.
Thông thường vào giai đoạn này các bácsĩ y khoa xác định quá trình của cái chết đã kết thúc theo tiêu chuẩn y khoa.Thế nhưng theo chúng tôi [những người Phật giáo Tây tạng]quá trình của cái chết chưa chấm dứt, tuy rằng bắt đầu từ thời điểm này khả năngcảm nhận của các giác quan đã mất, thế nhưng tri thức vẫn hoạt động, điều đó khôngcó nghĩa là người hấp hối có thể hồi tỉnh lại được. Bốn cấp bậc thô thiển vàtinh tế vẫn còn tiếp tục tồn tại trong giai đoạn này, chúng chỉ tan biếnsau nàykhi bốn giai đoạn cuối cùng bắt đầu diễn tiến [tất cảlà tám giai đoạn].
Cấp bậc thô thiển nhất [thứ năm, tức giai đoạn một của bốn giai đoạn cuối cùng]tan biến trước nhất, dấu hiệu bên trong là sự quán thấy một màu trắng tương tợnhư bầu trời mùa thu thật tinh khiết chan hòa ánh trăng rạng rỡ. Bên ngoài khôngcòn một dấu hiệu nào phát hiện.
Sự quán thấy màu trắng vàkhí lựchay "gió" chuyển tải nó tan biến [giaiđoạnthứ sáu]. Một sự quán thấy khác tinh tếhơn xuất hiện : đó là một màu đỏ rực rỡ tỏa rộng, tương tợ như bầu trời mùa thutrong suốt chan hòa ánh sáng màu đỏ của mặt trời.
Trong giai đoạn thứ bảy, phát sinh mộtsự quán thấy khác, tinh tế hơn các cấp bậc trước : đó là sự quán thấy một màu đenbóng loáng gần như dầy đặc. Hình ảnh này tương tợ như bầu trời mùa thu thậttinh khiết vào lúc gần nửa đêm. Trong phần đầu của giai đoạn này, người chết vẫncòn ý thức, thế nhưng khả năng yếu dần và cuối cùng lắng vào một trạng thái vôtri.
Khi sự cảm nhận màu đen bóng loángvà dầy đặc cùng với năng lực chuyển tải nó tan biến, một sự cảm nhận tinh tế hơnhết so với tất cả các cảm nhận trước đây hiển hiện : đấy là "ánh sángtrong suốt của cái chết". Thể dạng cảm nhận đó tương tợ như bầu trời bìnhminh vào mùa thu, trong vắt không một gợn mây. Người ta gọi đấy là tri thứcnguyên thủy, bởi vì nó là nguồn gốc làm phát sinh ra tất cả các thể dạngtri thứckhác. Đấy chính là lúc sự sống chấm dứtthật sự.
Đối với những người bình thường ,giai đoạn trên đây hoàn toàn vô thức, tương tợ như bất tỉnh. Đối với những ngườiluyện tập du-già thì đấy lại là giây phút phải đem ra ứng dụng các kết quả tu tậpcủa mình trước khi các tế bào trong cơ thể thoái hóa [tronggiai đoạn này các cơ quan trong cơ thể không còn dùng được để ghép cho các bệnhnhân khác]. Người du-già có khả năng nhận biết được thể dạng tinhtế caonhất trên đây : đấy là "tri thức ánh sáng trong suốt", [người luyện tập ý thức được thể dạng ánh sáng trong suốt vàhội nhập với ánh sáng đó, không chuyển sang quá trình thô thiển của sự tái sinh]
Ba cấp bậc tri thức(tr. 176)
Tri thức được phân chia thành ba cấpbậc tinh tế khác nhau : thể dạng đang trong lúc thức (hay thể dạng thô thiển củatri thức), thể dạng chiêm bao (tinh tế hơn) và thể dạng ngủ thật say (tinh tế hơnhết, hoàn toàn không còn chiêm bao).
Người ta có thể so sánh ba thể dạng ấyvới ba giai đoạn sinh, chết trên phương diện vật chất và thể dạng trung gian gọilà bardo[trungấm hay trung hữu] trước khi xảy ra sự tái sinh [thụthai]. Ba giai đoạn vừa kể [sinh,chết và trunggian] được phân biệt thành ba cấp bậc khác nhau, căn cứ vào ba cấp bậc trithức tinh tế của chúng. Trong khi xảy ra quá trình của cái chết, người đang chếtlắng thật sâu vào tri thức tinh tế. Thế nhưng sau khi đã chết, và sau giai đoạntrung gian hay bardo, cá thể ấy lại bịchi phối trở lại bởi sự tái sinh, theo đó tri thức cũng dần dần trở nên thô thiểnhơn. Tri thức càng lúc càng trở nên dầy đặc trong quá trình diễn tiến của sự táisinh và đầu thai.
Rất nhiều tập sách thuật lại trườnghợp nhiều người nhớ lại kiếp trước của mình. Nghiên cứu thêm về các hiệntượngtrên đây sẽ mang lại nhiều lợi ích và mở rộng thêm kiến thức cho nhân loại.
Phép luyện tậpdu-già(tr. 176)
Đối với một số người phépluyện tậpdu già quá khó, tạo ra đau đớn và chẳng giúp ích được gì cho tâm thức. Đối với mộtsố người khác đó là một phương pháp đơn giản và tự nhiên, giúp mang lại sự thoảimái trên phương diện tổng quát. Tuy nhiên phương tiện dùng để tinh khiếthóa tâmthức vẫn chính là tâm thức. Nếu cảnh giác cẩn thận, theo dõi các quá trình vậnhành của tâm thức, ta sẽ vô cùng sửng sốt nhận thấy tầm quan trọng vô song của nó.Tâm thức chính là trung tâm của tất cả [từ các biến cố và hiện tượng cho đến sự giải thoát và giác ngộ].
Con đường trí tuệ(tr. 177)
Trí tuệ cần thiết cho việc tìm hiểu sựthật sâu xa hay tối thượng, tức là tánh không - trí tuệ dùng để cảm nhậnsự vắngmặt của cái ngã - nó có thể mang tính cách trực tiếp hay gián tiếp. Trí tuệ dựavào sức mạnh duy nhất của nó và được bổ khuyết thêm một số khả năng khác- sựtin tưởng, sự tập trung và cố gắng - có thể phá tan được sức mạnh của ảogiác.
Sự tiếp cận hợp lý(lôgic) đối với hiện thực(tr. 177)
Những người tu tập Phật giáo luôn chútâm vào chủ đích tìm kiếm sự thật hay hiện thực. Thế nhưng đồng thời họ cũng khẳngđịnh không nên hoàn toàn tin tưởng vào sự cảm nhận của mình đối với hiệnthực,bởi vì có một sự cách biệt giữa các thể dạng hiển hiện của các sự vật vàphươngcách hiện hữu của chúng. Tuy nhiên sau đây là các phương pháp tốt nhất có thể sửdụng để tiếp cận và tìm hiểu hiên thực : phương pháp suy luận căn cứ trên sự hợplý (lôgic), phương pháp suy diễn (phân tích), tam đoạn luận mang lại sự hiểnnhiên, đấy là ba thứ khí cụ chính yếu được sử dụng để chứng minh sự hợp lý(lôgic). Đấy là các modus operandi[các chữ này là tiếng La-tinh, tạm dịch là các "phương thức hành động"] giúpchuyển một sự quán nhận sai lầm trở thành một sự cảm nhận vững chắc, [Phật giáo xem các hiện tượng chỉ là ảo giác không phải hiệnthực, bản chất của hiện thực là tánh không, muốn quán nhận được tánh không rấtkhó, phải dựa vào nhiều phương pháp khác nhau].
Sự hợp lý (lôgic)và trí tuệ tự tại(tr. 177)
Trí tuệ dùng để quán nhậnsự vắng mặtcủa cái ngã. Sự quán nhận đó được căn cứ vào sự hợp lý (lôgic) thật vữngchắc vàkhi ta đã quen với quá trình phân tích sự vững chắc của nó [tức sự vắng mặt của cái ngã] trí tuệ tự tại sẽ pháthiện để loại bỏ vô minh. Không những trí tuệ có thể tự hiển hiện mà còn có thể tỏarộng đến vô biên nếu ta biết phát huy nó. Khi trí tuệ nẩy nở sẽ khiến các ý nghĩvề sự hiện hữu tự tại suy yếu dần và sau cùng sẽ hoàn toàn biến mất. Mọisự khổnhọc và lầm lẫn sẽ tan biến khi tiếp xúc với hiện thực. Chúng không còn lưu lạimột dấu vết nào trong bầu không gian của hiện thực tinh khiết, kết quả thực tiễnlà trong trường hợp đó ta không còn tạo nghiệp[phát huy được trí tuệ, quán nhận được tánh không, loạibỏ được vô minh, nhìn thấy được bản chất vô ngã của mọi hiện tượng, ta khôngcòn tạo nghiệp nữa và đấy cũng là thể dạng giải thoát].
Tu tập Đạo Phápmang lại sự thanh thản(tr. 178)
Đạo Pháp giải thích tại sao lại có nhiềucấp bậc khổ đau khác nhau. Theo thuyết nhân quả nghiệpchi phối hành động và hậu quả của nó, dựa vào đó chúng tatin có kiếp sau [nếu không có kiếp sau không thể giảithích sự bất hạnh quá ư khác biệt giữa các cá thể con người]. Sự tin tưởngđó góp phần mang lại cho chúng ta một sự thanh thản trong cuộc sống và giúp chúngta chấp nhận các biến cố tiếp nối nhau xảy ra trong cuộc đời mình. Chúngta hiểurằng mọi sự bồn chồn và xoay sở đều hoàn toàn vô ích, không nên quá lo âu về nhữngnỗi khổ đau của mình, [vì đó là hậuquả do chính mìnhtạo ra].
Sự kiện quán nhận được bản chất tạmthời của khổ đau ngày càng minh bạch hơn sẽ tránh cho chúng tình trạng vô tâm hoặccách suy nghĩ đại loại như : "chẳng có gì quan trọng". Khả năng ý thứcđược sự khổ đau đúng với bản chất của nó [vì đôi khita hiểu lầm khổ đau là hạnh phúc, chẳng hạn như sự thích thú do giác cảmmang lại]là một phẩm tính giúp khơi động niềm khát vọng loại bỏ nó, [vì khổ đau mang tính cách tạm thời không phải tự tại và vĩnhviễn, vì thế phải ý thức được điều đó để loại bỏ nó].
Bốn sự thực cao quý(tr. 178)
Đức Phật dạy như sau : "Đây làkhổ đau đích thực, đây là nguyên nhân đích thực, đây là con đường đích thực".Ngài nói thêm : "Hãy ý thức khổ đau, loại bỏ những nguyên nhân của nó, đạtđược sự chấm dứt khổ đau, bước theo con đường đúng đắn" [tức là bát chánh đạo]. Đức Phật lại giảng thêm :"Hãy ý thức được khổ đau, mặc dù chẳng có gì để ý thức, hãy từ bỏ các nguyênnhân mang lại khổ đau, mặc dù chẳng có gì để từ bỏ, hãy xa lánh thế tục một cáchnghiêm túc, mặc dù chẳng có gì để xa lánh" [cónghĩa tất cả đều là tánh không, nắm vững tánh không của mọi hiện tượng mới cóthể đạt được giác ngộ tối thượng, loại bỏ khổ đau chỉ là sự giải thoát].Đấylà ba thể dạng của bản thể tự tại, của hành động và kết quả tối thượng của Tứ Diệu Đế.
(DƯỢC SƯ TAM TÔN)
Bổn nguyện của Dược Sư Như Lai là trị tất cả trọng bệnh phiền não vè thân và tâm của chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi sinh tử khổ đau. Vì Dược Sư Như Lai có bổn nguyện thanh tịnh như vậy nên ánh sáng trong suốt hoàn toàn thanh tịnh như lưu ly vô ngại hiển hiện trên thân của Ngài.
Theo Phật Giáo tất cả chư Phật, Bồ Tát ứng thân thị hiện ra đời vì lòng thương cứu độ chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử. Vì chúng sinh vô lượng vô biên nên chư Phật cũng thị hiện vô số, tùy theo nghiệp lực, căn tánh của chúng sinh mà các Ngài kiến tạo quốc độ và lập đại nguyện để giáo hóa, đưa chúng sinh thoát khỏi phiền não khổ đau, có đời sống an lạc tự tại. Đức Phật Dược Sư là 1 trong vô số chư Phật có quốc độ và hạnh nguyện riêng của mình.
Dược Sư Như Lai tiếng Phạm gọi là: Bhaisajya-guru Vaidurya-prabharajyah, gọi đủ là Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, người ta thường gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, gọi tắt là Dược Sư Phật. Theo Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Kinh chép: “về phương Đông cách thế giới Ta Bà khoảng 10 hằng hà sa Phật độ có cõi Phật tên là Tịnh Lưu Ly, tên của Đức Phật đó là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”.
Vì sao có tên gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai? Theo kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức, nhờ trong khi tu hành Bồ tát đạo phát 12 đại nguyện giải trừ hết thảy bệnh khổ cho chúng sinh, khiến họ đầy đủ căn lành và hướng về giải thoát nên khi thành Phật, Ngài trụ ở thế giới Tịnh lưu ly, trang nghiêm như thế giới Cực lạc, cùng với 2 vị Đại Bồ tát là Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu làm quyến thuộc để giáo hóa chúng sinh.
Bổn nguyện của Dược Sư Như Lai là trị tất cả trọng bệnh phiền não vè thân và tâm của chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi sinh tử khổ đau. Vì Dược Sư Như Lai có bổn nguyện thanh tịnh như vậy nên ánh sáng trong suốt hoàn toàn thanh tịnh (Lưu Ly Quang) như lưu ly vô ngại hiển hiện trên thân của Ngài, và quốc độ của Ngài cũng như vậy nên gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang.
Cũng như các Đức Phật trong mười phương, Đức Dược Sư có đầy đủ thập hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.
Tranh tượng của Phật Dược Sư hay được vẽ với tay trái cầm thuốc chữa bệnh và tay phải giữ Ấn thí nguyện. Phật Dược Sư thường được thờ chung với Phật Thích Ca Mâu Ni và A Di Đà, trong đó Phật Dược Sư đứng bên trái còn Phật A Di Đà đứng bên phải Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong kinh Dược Sư, hiện nay chỉ còn bản chữ Hán và chữ Tây Tạng, người ta đọc thấy 12 lời nguyện của Ngài, thệ cứu độ chúng sinh, với sự giúp đỡ của chư Phật, Bồ Tát và 12 vị Hộ Pháp và Thiên vương.
Tại Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản và Việt Nam, Phật Dược Sư được thờ cúng rộng rãi.
Về công phu trì niệm hồng danh Đức Phật Dược Sư, mặc dù Ngài có nhiều danh hiệu nhưng trì niệm hồng danh thường là Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật hay Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Theo sách Dược Sư kinh sám (HT.Trí Quang dịch), phần Niệm Phật ghi rõ niệm Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật. Các hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, phải đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh và niệm đến nhất tâm. Cũng vậy, khi tu tập pháp môn Dược Sư, hành giả niệm danh hiệu Phật Dược Sư cũng phải đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh. Có thể niệm thầm, niệm ra tiếng, lần tràng hạt v.v… và niệm cho đến nhất tâm giống như các phương thức niệm Phật A Di Đà.
Về ý nghĩa Thánh hiệu: Dược Sư, nghĩa đen là thầy thuốc chữa bệnh. Lưu ly là một loại ngọc màu xanh trong suốt. Quang là ánh sáng. Lưu ly quang là ánh sáng ngọc lưu ly. Dược Sư Lưu Ly Quang Phật là vị Phật có danh hiệu Thầy thuốc chữa bịnh, ánh sáng như ngọc lưu ly. Phật Dược Sư hiểu biết và thông suốt tất cả y dược của thế gian và xuất thế gian, Ngài có thể chữa trị hết tất cả những thứ bệnh khổ của chúng sinh, những điên đảo vọng tưởng do tham, sân, si phiền não gây ra. Ánh sáng của Phật Dược Sư thật không nghĩ bàn “Trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn, không có chút nhơ bợn, ánh quang minh chói lọi khắp nơi”. Ánh sáng ấy chiếu đến đâu đều phá hết tăm tối vô minh của chúng sinh, đem lợi lạc và diệt tất cả những bệnh khổ thân tâm của chúng sinh, khiến cho họ xa lìa mê vọng mà hướng đến giác ngộ, giải thoát.
Về công năng của việc trì niệm danh hiệu Phật Dược Sư, có thể nói là không thể nghĩ bàn. Theo kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức, đại dụng của danh hiệu Phật Dược Sư, điển hình có năm vấn đề sau:
Diệt sự tham lam mà phát tâm bố thí: Nhờ trì niệm danh hiệu Đức Dược Sư mà mở rộng tấm lòng, không còn tham lam, ích kỷ chỉ lo tích cóp cho riêng mình đồng thời luôn chia sẻ, ca ngợi và thực hành bố thí.
Diệt sự phạm tội mà được sự giữ giới: Đối với những tội lỗi, lầm lỡ đã gây tạo, nhờ niệm danh hiệu Ngài mà được chuyển hóa đồng thời phát nguyện sống đạo đức, lương thiện theo Chính pháp.
Diệt sự ganh ghét mà được sự giải thoát: Do nghiệp lực ganh ghét, đố kỵ người khác nên chịu quả báo hèn hạ, thống khổ. Niệm Phật Dược Sư sẽ khiến cho hành giả phát tâm tu học, diệt trừ khổ não, thành tựu giải thoát.
Diệt sự hại nhau mà được sự thương nhau: Những ý niệm oán kết, thù hận dẫn đến hành động tiêu diệt lẫn nhau, nhờ niệm danh hiệu Đức Dược Sư mà được hóa giải. Không những không còn làm hại nhau mà còn hiểu biết, thương yêu và tôn trọng lẫn nhau.
Được sinh Cực lạc hay các sự chuyển sinh khác: Đối với những hành giả phát tâm niệm Phật A Di Đà, cầu vãng sinh Cực lạc thì niệm Phật Dược Sư là một sự trợ duyên rất quan trọng. Chư Phật, các Đại Bồ tát trong pháp hội Dược Sư luôn trợ hóa cùng Phật A Di Đà, tiếp dẫn chúng sinh về Cực lạc. Ngoài ra, nhờ công đức tu tập Thánh hiệu Phật Dược Sư mà hành giả được đầy đủ phước báo, sinh về các thế giới an lành.
Ngoài ra, nhờ năng lực bổn nguyện của Phật Dược Sư, những chúng sinh thọ trì danh hiệu Ngài được tiêu trừ tất cả bệnh khổ và thành tựu mọi sở nguyện, sở cầu.
Bảy tôn tướng của Đức Dược Sư Như Lai
Đức Phật Dược Sư là một đấng giác ngộ có lòng bi mẫn vô biên đối với hết thảy chúng sinh. Ngài hộ trì chúng sinh tránh khỏi những đớn đau về tâm hồn và thể xác, khỏi những hiểm nguy và chướng ngại, và giúp họ trừ diệt ba độc tố - tham trước, sân hận và si mê – cội nguồn của mọi bệnh tật và nguy hại. Ngài là đấng Y vương Toàn giác.
Theo các Kinh điển Phật Giáo thì Đức Dược Sư Như Lai có 7 tôn tượng. Có thuyết cho là mỗi vị có mỗi đại nguyện và ứng thân riêng từng vị. Có thuyết cho là các Ngài từ nhất thể là Đức Dược Sư Như Lai mà phân thân ứng hiện (ứng thân), danh hiệu của các Ngài là: Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai; Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai; Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai; Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai; Pháp Hải Lôi Âm Như Lai; Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như lai; Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
Tượng Dược Sư Tam Tôn hay còn được gọi là Tượng Đông Phương Tam Thánh. Là 3 vị Bồ Tát của thế giới Tịnh Thổ Lưu Ly Phương Đông. Thường là Phật Dược Sư, Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát.
Trong thời đại Điện Quang Như Lai, có 1 vị cư sĩ và 2 người con. Cùng chung lập chí, cứu lấy tất cả chúng sinh bệnh tật cực khổ trong thế gian. Điện Quang Như Lai lệnh cho vị cư sĩ này đổi tên thành “Dược Vương”. Vị “Dược Vương” này trải qua thời gian dài tu luyện khổ cực đã đắc đạo thành Phật, chính là Phật Dược Sư. 2 người con cũng chính là Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát.
Phật Dược Sư độ hóa chúng sanh hữu tình. Nhất là chúng sanh bệnh tật đau khổ, để đạt được lợi ích an lạc. Tại thế giới Tịnh Thổ Lưu Ly Phương Đông. Có rất nhiều vị Bồ Tát dưới sự lãnh đạo của Nguyệt Quang và Nhật Quang hai vị Bồ Tát . Hai vị Bồ Tát này sẽ theo thứ tự thay thế khi Phật Dược Sư nhập Niết Bàn.
Đông Phương Tam Thánh 东方三圣
Đông Phương Tam Thánh hay còn được gọi là Dược Sư Tam Tôn , là 3 vị Bồ Tát của thế giới Tịnh Thổ Lưu Ly Phương Đông . Thường là Phật Dược Sư , Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát . Trong thời đại Điện Quang Như Lai , có 1 vị cư sĩ và 2 người con , cùng chung lập chí , cứu lấy tất cả chúng sinh bệnh tật cực khổ trong thế gian . Điện Quang Như Lai lệnh cho vị cư sĩ này đổi tên thành “Dược Vương” . Vị “Dược Vương” này trải qua thời gian dài tu luyện khổ cực đã đắc đạo thành Phật , chính là Phật Dược Sư . 2 người con cũng chính là Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát .
Phật Dược Sư độ hóa chúng sanh hữu tình , nhất là chúng sanh bệnh tật đau khổ , để đạt được lợi ích an lạc . Tại thế giới Tịnh Thổ Lưu Ly Phương Đông có rất nhiều vị Bồ Tát dưới sự lãnh đạo của Nguyệt Quang và Nhật Quang hai vị Bồ Tát . Hai vị Bồ Tát này sẽ theo thứ tự thay thế khi Phật Dược Sư nhập Niết Bàn .
Có một số ngôi chùa thờ Phật Dược Sư cùng với Dược Vương , Dượng Thượng hai vị Bồ Tát , ngụ ý ban thuốc cứu tất cả chúng sanh khỏi bệnh tật .
Cũng có chùa thờ Phật Dược Sư cùng với Quan Âm và Đại Thế Chí hai vị Bồ Tát , ngụ ý rằng không có sự phân biệt giựa Tịnh Thổ Phương Đông và Phương Tây
Trong thời đại Điện Quang Như Lai, có 1 vị cư sĩ và 2 người con. Cùng chung lập chí, cứu lấy tất cả chúng sinh bệnh tật cực khổ trong thế gian. Điện Quang Như Lai lệnh cho vị cư sĩ này đổi tên thành “Dược Vương”. Vị “Dược Vương” này trải qua thời gian dài tu luyện khổ cực đã đắc đạo thành Phật, chính là Phật Dược Sư. 2 người con cũng chính là Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát.
Phật Dược Sư độ hóa chúng sanh hữu tình. Nhất là chúng sanh bệnh tật đau khổ, để đạt được lợi ích an lạc. Tại thế giới Tịnh Thổ Lưu Ly Phương Đông. Có rất nhiều vị Bồ Tát dưới sự lãnh đạo của Nguyệt Quang và Nhật Quang hai vị Bồ Tát . Hai vị Bồ Tát này sẽ theo thứ tự thay thế khi Phật Dược Sư nhập Niết Bàn.
Đông Phương Tam Thánh 东方三圣
Đông Phương Tam Thánh hay còn được gọi là Dược Sư Tam Tôn , là 3 vị Bồ Tát của thế giới Tịnh Thổ Lưu Ly Phương Đông . Thường là Phật Dược Sư , Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát . Trong thời đại Điện Quang Như Lai , có 1 vị cư sĩ và 2 người con , cùng chung lập chí , cứu lấy tất cả chúng sinh bệnh tật cực khổ trong thế gian . Điện Quang Như Lai lệnh cho vị cư sĩ này đổi tên thành “Dược Vương” . Vị “Dược Vương” này trải qua thời gian dài tu luyện khổ cực đã đắc đạo thành Phật , chính là Phật Dược Sư . 2 người con cũng chính là Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát .
Phật Dược Sư độ hóa chúng sanh hữu tình , nhất là chúng sanh bệnh tật đau khổ , để đạt được lợi ích an lạc . Tại thế giới Tịnh Thổ Lưu Ly Phương Đông có rất nhiều vị Bồ Tát dưới sự lãnh đạo của Nguyệt Quang và Nhật Quang hai vị Bồ Tát . Hai vị Bồ Tát này sẽ theo thứ tự thay thế khi Phật Dược Sư nhập Niết Bàn .
Có một số ngôi chùa thờ Phật Dược Sư cùng với Dược Vương , Dượng Thượng hai vị Bồ Tát , ngụ ý ban thuốc cứu tất cả chúng sanh khỏi bệnh tật .
Cũng có chùa thờ Phật Dược Sư cùng với Quan Âm và Đại Thế Chí hai vị Bồ Tát , ngụ ý rằng không có sự phân biệt giựa Tịnh Thổ Phương Đông và Phương Tây
又稱藥師三尊,相對於西方三聖而言,是東方淨土琉璃世界的三位佛菩薩。一般說法是藥師佛、日光菩薩、月光菩萨。在電光如來時代,一位居士與他的兩個兒子,共同立志,拯救世間一切病苦眾生,電光如來命這位居士改名為「醫王」,這位「醫王」後來經過長時間的苦修之後得道成佛,就是藥師佛。他的兩個兒子,也就是日光菩薩、月光菩萨。
藥師三尊化导救济有情众生,尤其拯救傷病痛苦眾生,使之得到究竟安乐利益。东方净琉璃光世界的众多菩萨由此日光菩薩、月光菩萨领导,兩菩薩将于药师佛涅槃后,依次递补佛的位置。
亦有寺廟以藥王、藥上兩菩薩为药师如來的左右胁侍,以示施藥度盡苦難眾生之意。
亦有寺廟以觀音、勢至二菩薩為药师如來脅侍,表示東方與西方淨土無二無別。
藥師三尊化导救济有情众生,尤其拯救傷病痛苦眾生,使之得到究竟安乐利益。东方净琉璃光世界的众多菩萨由此日光菩薩、月光菩萨领导,兩菩薩将于药师佛涅槃后,依次递补佛的位置。
亦有寺廟以藥王、藥上兩菩薩为药师如來的左右胁侍,以示施藥度盡苦難眾生之意。
亦有寺廟以觀音、勢至二菩薩為药师如來脅侍,表示東方與西方淨土無二無別。
NHẬT QUANG BỒ TÁT
Nhật Quang Bồ Tát, tên Phạn là Sūrya-prabha, dịch âm là Tô Lợi Gia Bát La Bà. Lại xưng là Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát, Nhật Diệu Bồ Tát hay Nhật Quang Phổ Chiếu Bồ Tát. Danh hiệu Nhật Quang Bồ Tát được lấy từ ý tưởng: “Mặt trời phóng ra ngàn ánh sáng chiếu khắp thiên hạ, phá mọi ám tối”. Vị Bồ Tát này y theo Bản Nguyện Từ Bi, Tam Muội Phổ Thí chiếu diệu Pháp Giới, bụi thế tục… phá nát sự tối tăm của sinh tử giống như ánh sáng mặt trời chiếu khắp thế gian, cho nên có tên này.
Kinh Dược Sư ghi nhận Nhật Quang Bồ Tát vị đứng hầu bên trái Đức Phật Dược Sư, cùng với vị Nguyệt Quang Bồ Tát đứng hầu bên phải, là hai vị Đại Phụ Tá của Đức Phật Dược Sư trong quốc thổ Tịnh Lưu Ly ở phương Đông. Đây là hai vị Bồ Tát thượng thủ của vô lượng chúng Bồ Tát, thọ trì kho báu Chính Pháp của Đức Dược Sư Như Lai. Đức Phật Dược Sư với hai vị Bồ Tát này được hợp xưng là Đông Phương Tam Thánh
Nhật Quang Bồ Tát cùng với Đức Phật Dược Sư có quan hệ rất sâu xa. Trong thời quá khứ xa xưa, ngay khi Đức Điện Quang Như Lai hành hóa ở thế gian thời có một vị Phạm Sĩ (Brāhmaṇa: Bà La Môn) nuôi dưỡng hai đứa con. Ba cha con đều cảm thấy sự trược loạn của thế gian, khi ấy phát khởi Tâm Bồ Đề, thề nguyện cứu chữa chúng sinh bị bệnh khổ nên Đức Điện Quang Như Lai đối với họ khen ngợi khác thường, liền vì vị Phạm Sĩ đổi tên là Y Vương, hai người con được đổi tên là Nhật Chiếu, Nguyệt Chiếu. Do nương nhận sự phó chúc của Đức Điện Quang Như Lai nên sau khi thành Phật thì vị Phạm Sĩ ấy tức là Đức Dược Sư Như Lai. Hai người con tức là hai vị Đại Hiếp Thị Nhật Quang, Nguyệt Quang mà Nhật Chiếu tức là Nhật Quang Bồ Tát.
Nhật Quang Bồ Tát cùng với Đại Bi Chú của Quán Thế Âm Bồ Tát có quan hệ mật thiết. Người trì tụng Đại Bi Chú được Nhật Quang Bồ Tát hợp với vô lượng Thần Nhân đi đến chứng minh kèm tăng thêm hiệu nghiệm.
Nhật Quang Bồ Tát, tên Phạn là Sūrya-prabha, dịch âm là Tô Lợi Gia Bát La Bà. Lại xưng là Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát, Nhật Diệu Bồ Tát hay Nhật Quang Phổ Chiếu Bồ Tát. Danh hiệu Nhật Quang Bồ Tát được lấy từ ý tưởng: “Mặt trời phóng ra ngàn ánh sáng chiếu khắp thiên hạ, phá mọi ám tối”. Vị Bồ Tát này y theo Bản Nguyện Từ Bi, Tam Muội Phổ Thí chiếu diệu Pháp Giới, bụi thế tục… phá nát sự tối tăm của sinh tử giống như ánh sáng mặt trời chiếu khắp thế gian, cho nên có tên này.
Kinh Dược Sư ghi nhận Nhật Quang Bồ Tát vị đứng hầu bên trái Đức Phật Dược Sư, cùng với vị Nguyệt Quang Bồ Tát đứng hầu bên phải, là hai vị Đại Phụ Tá của Đức Phật Dược Sư trong quốc thổ Tịnh Lưu Ly ở phương Đông. Đây là hai vị Bồ Tát thượng thủ của vô lượng chúng Bồ Tát, thọ trì kho báu Chính Pháp của Đức Dược Sư Như Lai. Đức Phật Dược Sư với hai vị Bồ Tát này được hợp xưng là Đông Phương Tam Thánh
Nhật Quang Bồ Tát cùng với Đức Phật Dược Sư có quan hệ rất sâu xa. Trong thời quá khứ xa xưa, ngay khi Đức Điện Quang Như Lai hành hóa ở thế gian thời có một vị Phạm Sĩ (Brāhmaṇa: Bà La Môn) nuôi dưỡng hai đứa con. Ba cha con đều cảm thấy sự trược loạn của thế gian, khi ấy phát khởi Tâm Bồ Đề, thề nguyện cứu chữa chúng sinh bị bệnh khổ nên Đức Điện Quang Như Lai đối với họ khen ngợi khác thường, liền vì vị Phạm Sĩ đổi tên là Y Vương, hai người con được đổi tên là Nhật Chiếu, Nguyệt Chiếu. Do nương nhận sự phó chúc của Đức Điện Quang Như Lai nên sau khi thành Phật thì vị Phạm Sĩ ấy tức là Đức Dược Sư Như Lai. Hai người con tức là hai vị Đại Hiếp Thị Nhật Quang, Nguyệt Quang mà Nhật Chiếu tức là Nhật Quang Bồ Tát.
Nhật Quang Bồ Tát cùng với Đại Bi Chú của Quán Thế Âm Bồ Tát có quan hệ mật thiết. Người trì tụng Đại Bi Chú được Nhật Quang Bồ Tát hợp với vô lượng Thần Nhân đi đến chứng minh kèm tăng thêm hiệu nghiệm.
Phàm người trì tụng Chú Đại Bi nếu hay trì tiếp Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni ắt hay tịch trừ Ma Chướng, được quả báo tốt lành chẳng thể nghĩ bàn
_Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni ghi rằng: Nhật Quang Bồ Tát (Sūrya-prabha) vì người thọ trì Đại Bi Tâm Đà La Ni, nói Đại Thần Chú để ủng hộ là:
“Nam mô bột đà cù na mê (1) Nam mô đạt ma mạc ha đê (2) Nam mô tăng già đa dạ nê (3) Để lý bộ tất tát đốt diêm nạp ma”.
NAMO BUDDHĀ KUṆAMI
NAMO DHARMA MAHATI
NAMO SAṂGHA TAYĀNI TIRABHŪBI SATVADAṂ NAMA
Tụng Chú này diệt được tất cả tội, cũng hay đuổi được Ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng một biến, lễ Phật bái, Như vậy mỗi ngày, riêng ba Thời tụng Chú lễ Phật thì trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân sẽ được mỗi một tướng mạo đoan chính, được quả báo đáng vui mừng”.
Tại Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātumaṇḍala) thì Nhật Quang Bồ Tát biểu thị cho Đức đặc biệt như ánh sáng mặt trời hay trừ ưu não ám tối cho chúng sinh của Địa Tạng Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen để vành mặt trời. Ngồi trên hoa sen đỏ.
Tại Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātumaṇḍala) thì Nhật Quang Bồ Tát biểu thị cho Đức đặc biệt như ánh sáng mặt trời hay trừ ưu não ám tối cho chúng sinh của Địa Tạng Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen để vành mặt trời. Ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Uy Đức Kim Cương Chữ chủng tử là:
AḤ (ォ) hay KA (㒕) Tam Muội Gia Hình là: Vành mặt trời.
Tướng Ấn là: Hai tay, 2 đầu ngón trỏ, 2 đầu ngón cái cùng tiếp chạm nhau. Giương mở 3 ngón còn lại như hình mặt trời phóng ánh sáng.
Chân Ngôn là: ON _ SŪRYA-PRABHĀYA_ SVĀHĀ
Nguyệt Quang Bồ Tát, tên Phạn là Candra-prabha, dịch âm là Tán Nại La Bát La Bà. Lại xưng là Nguyệt Tịnh Bồ Tát, Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát
Xuất xứ của Nguyệt Quang Bồ Tát có nhiều Thuyết chẳng đồng nhau, thông thường có ba loại giải thích:
1_ Ngài là vị Đế Vương cổ xưa của Ấn Độ, tức là tiền thân của Đức Thích Ca tu Bồ Tát Hạnh ở đời quá khứ Kinh Hiền Ngu, quyển 6_Kinh Nguyệt Quang Bồ Tát_Kinh Đại Bảo Tích, quyển 80… ghi chép là: “Vị vua này có Đại Uy Đức, sau này bố thí cái đầu cho Bà La Môn Lao Độ Sai để đầy đủ Hạnh Đàn Ba La Mật. Lại xưng là Nguyệt Quang Bồ Tát”
2_Nguyệt Quang là tên gọi khác của Ba Tư Nặc (Prasenajit) là vua của nước Xá Vệ (Śrāvastī) ở Trung Ấn Độ khi Đức Phật còn tại thế Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật, quyển Thượng nói rằng: “Chủ của nước Xá Vệ là vua Ba Tư Nặc có tên gọi là Nguyệt Quang” Ba Tư Nặc (Prasenajit) lại xưng là Tác La Tê Na Thị Đa Vương, La Tẩy Nẵng Dụ Na Vương. Dịch ý là Thắng Quân Vương, Thắng Quang Vương, Hòa Duyệt Vương, Nguyệt Quang Vương, Minh Quang Vương. Ngài là vị vua của nước Kiều Tát La (Kauśala) tại thành Xá Vệ (Śrāvastī) ở Trung Ấn Độ đồng thời đại với Đức Thích Tôn, là bậc Đại Ngoại Hộ cho Giáo Đoàn của Đức Thích Tôn kèm thống lãnh nước Ca Thi (Kāśi) cùng với nước Ma Yết Đà (Magadha) đều là đại cường quốc. Ban đầu, nhà vua rất bạo ác không có niềm tin, sau khi quy y Đức Phật, được Đức Phật Đà giáo hóa thì mới dốc lòng tin Phật Pháp, từng cùng với vị phu nhân của Ngài là Ma Lợi Ca (Mallikā) hỏi đáp, được kết luận là “con người đều yêu chính mình nhất”, sau đó Ngài thỉnh giáo Đức Thích Tôn. Cuộc đối thoại ấy còn lưu lại ở đời cho đến ngày nay.
3_Nguyệt Quang Bồ Tát là vị hầu cận bên phải Đức Phật Dược Sư (Bhaiṣaijyaguru-buddha) tại Thế Giới Tịnh Lưu Ly (Vaiḍurya) ở phương Đông cùng với vị hầu cận bên trái Đức Phật Dược Sư là Nhật Quang Bồ Tát (Sūrya-prabha). Cả ba vị này được hợp xưng là Đông Phương Tam Thánh Tương truyền Đức Dược Sư Như Lai cùng với Nhật Quang, Nguyệt Quang vốn là cha con, từng ở trong Pháp Vận của Đức Điện Quang Như Lai siêng tu Phạm Hạnh (Brahma-caryā), nhận sự phó chúc của Đức Điện Quang Như Lai, phân biện cải tên gọi là Y Vương cùng với Nhật Chiếu, Nguyệt Chiếu phát Đại Nguyện Vô Thượng Bồ Đề thề cứu tất cả hữu tình trong sáu nẻo thoát khỏi khổ Luân Hồi
_Trong Phật Pháp thì Nguyệt Quang Bồ Tát biểu thị cho sự lắng tâm tĩnh lự nhập vào Thiền Định (tĩnh định), ánh sáng trong suốt rực rỡ có thể dung nhiếp mỗi một chúng sinh trong Đại Thiên khiến cho miễn trừ được sự bức não của ba Độc Tham, Sân, Si Căn cứ vào sự ghi chép trong Kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện thời Nuyệt Quang Bồ Tát cùng với Nhật Quang Bồ Tát đồng là bậc thượng thủ của vô lượng vô số chúng Bồ Tát, Thứ Bổ Phật Xứ (Vị Bồ Tát chờ thành Phật) thọ trì kho báu Chính Pháp của Đức Dược Sư Như Lai
_Nguyệt Quang Bồ Tát lại được xưng là Nguyệt Thần (Thần mặt trăng) là vị Thần Tiên được lưu truyền rất rộng trong dân gian Trung Quốc
HÌNH TƯỢNG CỦA NGUYỆT QUANG BỒ TÁT
_Tôn Tượng của Nguyệt Quang Bồ Tát xuất hiện chẳng nhiều, hình tướng cùng với vật trang sức chẳng sai khác lắm so với vị Bồ Tát Ma Ha Tát .) Y theo Tu Dược Sư Nghi Quỹ Bố Đàn Pháp ghi chép: “Nguyệt Quang Bồ Tát có thân màu trắng, ngồi trên tòa ngỗng, tướng tốt đẹp trang nghiêm, thân đeo Anh Lạc với vật trang sức, tay cầm hoa sen xanh, trên sen có hình nửa vành trăng. Hoặc là nâng bàn tay cầm một vành trăng sáng” Ánh sáng mặt trăng biểu thị cho ánh sáng hiền thiện (từ quang) trong mát yên tĩnh, ở trong chốn hắc ám phát ra ánh sáng trắng tinh dẫn đưa Tà vào Chính .)Hoặc Nguyệt Quang Bồ Tát có hình Đồng Tử, ngồi trên hoa sen đỏ, trang điểm màu vàng, tay phải cầm hoa sen xanh bên trên có nửa vành trăng, tay trái cầm hoa sen chưa nở Sau này Tôn Tượng Nguyệt Quang Bồ Tát được phụng thờ theo nhiều dạng thức khác nhau Đồ Chúng Phật Giáo còn thờ phượng chung cả hai Tôn Tượng của Nguyệt Quang Bồ Tát và Nhật Quang Bồ Tát Hệ Mật Giáo ghi nhận Nguyệt Quang Bồ Tát có vị trí ở Văn Thù Viện trong Thai Tạng Giới Mạn Đa La, cũng là một trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp thuộc Kim Cương Giới Mạn Đa La.
_Tại Văn Thù Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) thì Nguyệt Quang Bồ Tát (Candra-prabha) biểu thị cho việc gìn giữ kho báu Chính Pháp Tôn Hình: Quyền phải để ngang eo, cầm hoa sen, bên trên hoa có nửa vành trăng. Tay trái dựng quyền cầm hoa sen chưa nở. Ngồi ngay thẳng trên đài sen. Mật Hiệu là:Uy Đức Kim Cương Chữ chủng tử là: CA (ク) Tam Muộ Gia Hình là: Trên hoa sen để nửa vành trăng.
Tướng Ấn là Chấp Liên Hoa Ấn: Tay phải, dựng lòng bàn tay đem ngón cái và ngón trỏ cùng vịn nhau. Chân Ngôn là:
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ CANDRA-PRABHĀYA_ SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) .)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Nguyệt Quang Bồ Tát có Tôn Hình giống như 1000 vị Phật đời Hiền Kiếp Mật Hiệu là: Thanh Lương Kim Cương, Hoạt Duyệt Kim Cương Chữ chủng tử là:
CA (ᘔ) hay MA (ᛸ)
Tam Muội Gia Hình là: Nửa vành trăng Tướng Ấn là : Tay phải tác Thanh Liên Hoa Ấn Chân Ngôn là:
OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ _ MA Hay OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ .)
Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Nguyệt Quang Bồ Tát có chữ chủng tử là: YA (ㆎ) Tam Muội Gia Hình là: Nửa vành trăng. Biểu thị cho việc phóng tỏa ánh sáng soi chiếu chúng sinh trong nẻo hắc ám, khiến cho họ hướng về Trí Tuệ của Phật Quả Tướng Ấn là:
Tay phải tác Thanh Liên Hoa Ấn Chân Ngôn là:
OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ _ YA .)
Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Nguyệt Quang Bồ Tát có chữ chủng tử là: BHA (᛬) Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay phải cầm giữ vành trăng, tay trái nắm quyền để cạnh eo.
Chân Ngôn là: OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ _ BHA .)
Tại Cúng Dường Hội (Sūkṣma) thì Nguyệt Quang Bồ Tát có chữ chủng tử là: BHA (᛬) Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có nửa vành trăng. Tướng Ấn là:Tay phải tác Thanh Liên Hoa Ấn Chân Ngôn là:
OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ _ BHA .)
Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Nguyệt Quang Bồ Tát có chữ chủng tử là: YA (ㆎ) Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có nửa vành trăng.
Tam Muội Gia Hình là: Nửa vành trăng. Chân Ngôn là:
OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ _ YA .)
Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Nguyệt Quang Bồ Tát có chữ chủng tử là: BHA (᛬)
Tam Muội Gia Hình là: Nửa vành trăng. Biểu thị cho việc phóng tỏa ánh sáng soi chiếu chúng sinh trong nẻo hắc ám, khiến cho họ hướng về Trí Tuệ của Phật Quả Chân Ngôn là:
OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ _ BHA
_Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni ghi nhận bài Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni là:
“Thâm đê đế đồ tô tra (1) A nhược mật đế ô đô tra (2) Thâm kỳ tra (3) Ba lại đế (4) Gia di nhược tra ô đô tra (5) Câu la đế tra kỳ ma tra (6) sa bà ha”.
NAMO SAṂDHETI TUṢŪṬHA ĀMITI ŪTŪṬHA SAṂKAIṬHA PALAUTIYEMEJAṬHA ŪTŪṬHA KAULĀTAUṬHA KAIMOṬHA SVÀHÀ
Tụng Chú này năm biến, lấy chỉ ngũ sắc làm sợi dây Chú (Chú Sách) rồi cột buộc ở chỗ bị đau nhức. Chú này do bốn mươi hằng hà sa chư Phật đời quá khứ đã nói, nay tôi cũng nói, vì các Hành Nhân mà làm ủng hộ để trừ tất cả chướng nạn, trừ sự đau nhức của tất cả bệnh ác, thành tựu tất cả Pháp lành, xa lìa tất cả các sự sợ hãi.
Đức Phật bảo: “Này A Nan ! Ông nên dùng Tâm sâu xa trong sạch mà thọ trì Đà La Ni này, rộng nói lưu truyền nơi cõi Diêm Phù Đề đừng để cho đoạn tuyệt. Đà La Ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong ba cõi. Tất cả bịnh khổ ràng buộc nơi thân, dùng Đà La Ni này mà trị thì không có bệnh nào chẳng khỏi.
Dùng Đại Thần Chú chú vào cây kho héo thì cay ấy còn được sinh cành lá, hoa quả huống chi hữu tình là chúng sanh Thức. Nếu thân có bệnh hoạn, dùng Chú này trị mà chẳng lành, ắt không có chuyện đó Thiện Nam Tử ! Sức uy thần của Đà La Ni này chẳng thể luận bàn ! Chẳng thể luận bàn ! Khen ngợi không thể hết được!
Nếu chẳng phải là người từ đời quá khứ lâu xa đến nay đã rộng gieo căn lành, thì cho đến tên gọi còn chẳng được nghe, huống chi là được thấy! Đại Chúng các ông, Trời, Người, Rồng,Thần… nghe Ta khen ngợi đều nên tùy vui”.
NHẬT QUANG BỒ TÁT NGUYỆT QUANG BỒ TÁT ĐÀ LA NI
(Chú này trích từ Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Chú Đà La Ni)
Sưu tập Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH
Nhật Quang Bồ Tát (Sūrya-prabha Bodhisatva) vì người thọ trì Đại Bi Tâm Đà La Ni nên nói Thần Chú để ủng hộ. Liền nói Chú là :
Nam mô bột đà cù na mê (1) Nam mô đạt ma mạc ha để (2) Nam mô tăng già đa dạ nê (3) Để lị bộ tất (4) Tát đốt đam nạp ma (5) sa bà ha (6) 傛伕 晜湑 乃仕亦傛伕 叻猣 亙倕凸傛伕 惈千
NAMO BUDDHĀ KUṆAMI
NAMO DHARMA MAHATI
NAMO SAṂGHA TAYĀNI
TIRABHŪBI SATVADAṂ_ NAMA DABHA SVĀHĀ
NAMO RĀGAYE SARVA SATAVAṆID DHARĀSAṂRĀ SVĀHĀ
Tụng Chú này diệt tất cả tội, cũng hay tịch trừ Ma và trừ Thiên Tai. Nếu tụng một biến lễ Phật một bái. Như vậy một ngày ba thời riêng biệt tụng Chú lễ Phật thì đời vị lai, khi thọ thân sẽ được mỗi mỗi tướng mạo đoan chính đầy đủ quả báo
Nguyệt Quang Bồ Tát (Candra-prabha Bodhisatva) cũng vì người tụng trì Đại Bi Tâm Đà La Ni mà nói Thần Chú. Vì các Hành Nhân nên nói Đà La Ni Chú để ủng hộ. Liền nói Chú là :
Thâm đê đế đồ tô tra (1) A nhược mật đế , ô đô tra (2) thâm kỳ tra (3) Ba lại đế tra (4) Gia di nhược tra, ô đô tra (5) Câu la đế tra kỳ ma tra (6) Sa bà ha”
NAMO SAṂDHETI TUṢŪṬHA ĀMITI ŪṬŪṬHA SAṂKAIṬHA
PALAUTIYEMEJAṬHA ŪṬŪṬHA KAULĀTAUṬHA KAIMOṬHA SVĀHĀ
Tụng Chú này 5 biến, lấy chỉ ngũ sắc làm Chú Sách (sợi dây Chú) cột buộc Chú này ở chỗ bị đau.
Đây là điều mà hằng hà sa chư Phật đời quá khứ đã nói. Nay Ta cũng vì các Hành Nhân mà làm ủng hộ, trừ tất cả chướng nạn , trừ tất cả đau đớn của bệnh ác, thành tựu tất cả Pháp lành, mau lìa tất cả sự đáng sợ. Nếu có kẻ bài báng Chú này tức là phỉ báng chư Phật vậy.
NAM MÔ NHẬT QUANG BIẾN CHIẾU BỒ TÁT
Nhật Quang Bồ Tát, tên Anh ngữ: Sunlight Bodhisattva, tên Phạn là Sūrya-prabha, dịch âm là Tô Lợi Gia Bát La Bà. Lại xưng là Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát, Nhật Diệu Bồ Tát hay Nhật Quang Phổ Chiếu Bồ Tát.
Danh hiệu Nhật Quang Bồ Tát được lấy từ ý tưởng: “Mặt trời phóng ra ngàn ánh sáng chiếu khắp thiên hạ, phá mọi ám tối”. Vị Bồ Tát này y theo Bản Nguyện Từ Bi, Tam Muội Phổ Thí chiếu diệu Pháp Giới, bụi thế tục… phá nát sự tối tăm của sinh tử giống như ánh sáng mặt trời chiếu khắp thế gian, cho nên có tên này.
Kinh Dược Sư ghi nhận Nhật Quang Bồ Tát vị đứng hầu bên trái Đức Phật Dược Sư, cùng với vị Nguyệt Quang Bồ Tát đứng hầu bên phải, là hai vị Đại Phụ Tá của Đức Phật Dược Sư trong quốc thổ Tịnh Lưu Ly ở phương Đông. Đây là hai vị Bồ Tát thượng thủ của vô lượng chúng Bồ Tát, thọ trì kho báu Chính pháp của Đức Dược Sư Như Lai.
Đức Phật Dược Sư với hai vị Bồ Tát này được hợp xưng là Đông Phương Tam Thánh
Nhật Quang Bồ Tát cùng với Đức Phật Dược Sư có quan hệ rất sâu xa. Trong thời quá khứ xa xưa, ngay khi Đức Điện Quang Như Lai hành hóa ở thế gian thời có một vị Phạm Sĩ (Brāhmaṇa: Bà La Môn) nuôi dưỡng hai đứa con. Ba cha con đều cảm thấy sự trược loạn của thế gian, khi ấy phát khởi Tâm Bồ Đề, thề nguyện cứu chữa chúng sinh bị bệnh khổ nên Đức Điện Quang Như Lai đối với họ khen ngợi khác thường, liền vì vị Phạm Sĩ đổi tên là Y Vương, hai người con được đổi tên là Nhật Chiếu, Nguyệt Chiếu.
Do nương nhận sự phó chúc của Đức Điện Quang Như Lai nên sau khi thành Phật thì vị Phạm Sĩ ấy tức là Đức Dược Sư Như Lai. Hai người con tức là hai vị Nhật Quang, Nguyệt Quang mà Nhật Chiếu tức là Nhật Quang Bồ Tát.
Nhật Quang Bồ Tát cùng với Đại Bi Chú của Quán Thế Âm Bồ Tát có quan hệ mật thiết. Người trì tụng Đại Bi Chú được Nhật Quang Bồ Tát hợp với vô lượng Thần Nhân đi đến chứng minh kèm tăng thêm hiệu nghiệm. Phàm người trì tụng Chú Đại Bi nếu hay trì tiếp Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni ắt hay tịch trừ Ma Chướng, được quả báo tốt lành chẳng thể nghĩ bàn
Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni ghi rằng:
Nhật Quang Bồ Tát (Sūrya-prabha) vì người thọ trì Đại Bi Tâm Đà La Ni, nói Đại Thần Chú để ủng hộ là:
“Nam mô bột đà cù na mê.
Nam mô đạt ma mạc ha đê.
Nam mô tăng già đa dạ nê.
Để lý bộ tất tát đốt diêm nạp ma”.
NAMO BUDDHĀ KUṆAMI
NAMO DHARMA MAHATI
NAMO SAṂGHA TAYĀNI
TIRABHŪBI SATVADAṂ NAMA
Tụng Chú này diệt được tất cả tội, cũng hay đuổi được Ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng một biến, lễ Phật bái, Như vậy mỗi ngày, riêng ba Thời tụng Chú lễ Phật thì trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân sẽ được mỗi một tướng mạo đoan chính, được quả báo đáng vui mừng”.
Tại Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātumaṇḍala) thì Nhật Quang Bồ Tát biểu thị cho Đức đặc biệt như ánh sáng mặt trời hay trừ ưu não ám tối cho chúng sinh của Địa Tạng Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen để vành mặt trời. Ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Uy Đức Kim Cương
Tướng Ấn là: Hai tay, 2 đầu ngón trỏ, 2 đầu ngón cái cùng tiếp chạm nhau. Giương mở 3 ngón còn lại như hình mặt trời phóng ánh sáng.
Chân Ngôn:
OM SŪRYA-PRABHĀYA SVĀHĀ
Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát Đà ra ni:
Om Sūrya prabha Svaha
Dịch nghĩa: Quy mệnh Nhật Quang thành tựu.
Danh hiệu Nhật Quang Bồ Tát được lấy từ ý: " Mặt trời phóng ra ngàn ánh sáng chiếu khắp thiên hạ, phá mọi ám tối". Vị Bồ Tát này y theo Bản Nguyện Từ Bi, Tam Muội Phổ Thí chiếu diệu Pháp giới, phá nát sự tối tăm của sinh tử giống như ánh sáng mặt trời chiếu khắp thế gian, cho nên có tên này.
Nhật Quang Bồ Tát có quan hệ mật thiết với Đại Bi Chú của Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong kinh có viết, người nào trì tụng Đại Bi Chú thì Nhật Quang Bồ Tát và vô lượng thần nhân sẽ đến làm chứng và tăng ích thêm hiệu nghiệm. Phàm là những người trì tụng Đại Bi Chú, nếu lại trì tụng thêm đà la ni của Nhật Quang Bồ Tát, sẽ có được sự phù hộ, bảo vệ của Nhật Quang Bồ Tát.
NGUYỆT QUANG BIẾN CHIẾU BỒ TÁT
Nguyệt Quang Bồ Tát (tên tiếng Phạn Candra Prabha), cùng với Nhật Quang Bồ Tát đều là tùy tùng của Dược Sư Như Lai, còn được gọi là Nguyệt Tịnh Bồ Tát, Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát.
Nguyệt Quang Bồ Tát có quan hệ mật thiết với Đại Bi Chú của Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong kinh có viết, người nào trì tụng Đại Bi Chú thì Nguyệt Quang Bồ Tát và vô lượng hộ pháp sẽ đến làm chứng và tăng ích thêm hiệu nghiệm. Phàm là những người trì tụng Đại Bi Chú, nếu lại trì tụng thêm đà la ni của Nguyệt Quang Bồ Tát, sẽ nhận được sự che chở của Nguyệt Quang Bồ Tát giúp cho người trì tụng trừ bỏ chứng ngại và bệnh tật đau đớn, đồng thời thành tựu tất cả thiện pháp, tránh xa mọi sự sợ hãi.
Chân Ngôn của Nguyệt Quang Bồ Tát:
Phạn: Om Candraprabhah Svaha
Phiên âm: Án Tán nại la bát la bà dã Sa Phộc Hạ
Dịch nghĩa: Quy mệnh Nguyệt Quang Thành tựu
Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát với đức Phật Dược Sư có quan hệ rất sâu xa. Trong thời quá khứ xa xưa, ngay khi đức Điện Quang Như Lai hành hóa ở nhân gian thời có một vị phạm sĩ (Bà La Môn) nuôi dưỡng hai đứa con. Ba cha con đều cảm thấy sự trược loạn của thế gian, khi ấy phát khởi Tâm Bồ Đề, thề nguyện cứu chữa chúng sinh bị bệnh khổ nên đức Điện Quang Như Lai đối với họ khen ngợi khác thường, liền vì vị phạm sĩ đổi tên là Y Vương, hai người con đổi tên là Nhật Chiếu và Nguyệt Chiếu. Do nương nhận sự phó chúc của đức Điện Quang Như Lai nên sau khi thành Phật vị phạm sĩ ấy tức là đức Dược Sư Như Lai. Hai người con tức là hai vị Nhật Quang, Nguyệt Quang
Nguyệt Quang Bồ Tát (Candra-prabha-bodhisatva) lại xưng là Nguyệt Tịnh, Nguyệt Quang Biến Chiếu.
Nguyệt Quang Bồ Tát là vị hầu cận bên phải Đức Phật Dược Sư (Bhaiṣaijya-guru-buddha) tại Thế Giới Tịnh Lưu Ly (Vaiḍurya) ở phương Đông cùng với vị hầu cận bên trái là Nhật Quang Bồ Tát (Sūrya-prabha) là hai vị Đại Thị Giả của Đức Dược Sư Như Lai
Ba Tôn: Dược Sư Như Lai, Nguyệt Quang Bồ Tát và Nhật Quang Bồ Tát hợp xưng làĐông Phương Tịnh Thổ Tam Thánh
Tương truyền ở đời quán khứ: Dược Sư Như Lai với Nhật Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát vốn là cha con, từng ở chỗ của Đức Điện Quang Như Lai siêng tu Phạm Hạnh, được Đức Điện Quang Như Lai phó chúc, phân biệt đổi tên gọi là Y Vương với Nhật Chiếu, Nguyệt Chiếu… phái Đại Nguyện Vô Thượng Bồ Đề thề cứu tất cả chúng sinh hữu tình trong sáu đường, thoát lìa nỗi khổ của sự luân hồị
Nguyệt Quang Biến Chiếu biểu thị cho Tâm lặng yên nhập vào Thiền Định, ánh sáng trong suốt, trong mát, vắng lặng.
Nguyệt Quang Bồ Tát có thể rộng nhiếp mỗi một chúng sinh trong Đại Thiên khiến cho miễn trừ được sự bức não của ba Độc Tham, Sân, Si
Kinh Dược Sư nói rằng: “Ở trong nước ấy có hai vị Bồ Tát Ma Ha Tát, vị thứ nhất tên là Nhật Quang Biến Chiếu, vị thứ hai tên là Nguyệt Quang Biến Chiếu là bậc Thượng Thủ của vô lượng vô số Bồ Tát”
Ở trong vô lượng Bồ Tát quyến thuộc của Đức Phật Dược Sư thì Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát là Bồ Tát có địa vị trọng yếu ở hàng Thượng Thủ. Hai người nắm giữ kho báu Chính Pháp của Đức Dược Sư Như Lai
Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni:
“Thâm đê đế đồ tô tra, a nhược mật đế ô đô tra, thâm kỳ tra, ba lại đế gia di nhược tra, ô đô tra, câu la đế tra, kỳ ma tra, thoa cáp”
SAṂDHETI TUSUṬHA AḤ JAME ŪTUṬHA SAṂKIṬHA PALAUTIYAMEJAṬHA ŪTUṬHA KAULOTIṬHA KIMOṬHA SVAHA
(Mật Tông Nhật Bản ghi nhận Đà La Ni này là:
NAMO SAṂDHETI TUṢŪṬHA ĀMITI ŪTŪṬHA SAṂKAIṬHA PALAUTIYEMEJAṬHA ŪTŪṬHA KAULĀTAUṬHA KAIMOṬHA SVĀHĀ)
Đà La Ni này được trích ra ở Kinh Thiên Thủ Quán Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni
Chú này là điều mà bốn mươi hằng hà sa chư Phật đời quá khứ đã nói để hộ trì các chúng sinh, trừ tất cả chướng nạn, trừ tất cả nỗi khổ đau của bệnh ác, xa lìa tất cả các sự sợ hãi, thành tựu tất cả các Thiện Pháp
Kinh Bồ Tát Nguyệt Quang
Tống Pháp Hiền dịch
Bản Việt dịch của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
***
Tôi nghe như Vầy:
Một thời Đức Phật ở tại tinh xá Trúc lâm, thành Vương xá thuyết pháp cho đại chúng Bí-sô. Khi ấy Tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên đến trước Đức Phật, năm vóc sát đất đảnh lễ dưới chân Ngài và bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay chúng con không nỡ nhìn thấy ngài viên tịch, vì thế giờ đây chúng con xin được diệt độ trước.
Lúc đó trong chúng có một thầy Bí-sô chắp tay hướng về Đức Phật thưa:
-Bạch Đức Thế Tôn, hai Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, vì lý do gì mà hôm nay đến xin Ngài nhập diệt trước? Cúi xin Đức Thế Tôn giải rõ sự nghi ngờ của chúng con.
Đức Thế Tôn bảo thầy Tỳ-kheo:
-Ông hãy lắng nghe Ta nói rõ nguyên nhân này. Hai thầy Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đã dứt trừ các lậu hoặc tham, sân, si. Việc đáng làm đã xong, phạm hạnh đã lập, không thọ nghiệp sau. Chẳng phải chỉ có ngày nay hai thầy ấy muốn nhập diệt mà vào thời quá khứ cũng vậy.
Về phía Bắc nước Ấn Độ có một thành lớn tên Hiền thạch, dài hai mươi do-tuần, chiều rộng cũng như vậy… Quốc vương nước ấy tên là Nguyệt Quang, tuổi thọ đến bốn vạn năm, có Thiên nhãn, túc mạng thông. Nhà vua có vóc dáng đoan nghiêm, đầy đủ các tướng chói sáng rực rỡ như ánh trăng rằm. Chỗ nhà vua ở không cần ánh sáng của mặt trời, mặt trăng hay đèn đuốc cho nên có hiệu là Nguyệt Quang. Vua Nguyệt Quang thống lãnh sáu vạn tám ngàn cõi nước trong bốn châu, đất nước thái hòa nhân dân an lạc, có nhiều vàng bạc, châu báu, y phục, thực phẩm, các loại xe voi, xe ngựa… Nơi bốn cổng thành đều có lâu đài, cửa sổ cửa lớn được trang trí bằng châu báu, trên các ngã đường được quét dọn sạch sẽ, dựng các tràng phan, bảo cái anh lạc trân châu. Lại có các loại hương thơm, hương bột gỗ Chiên-đàn, khi làn gió nhẹ thổi mang theo hương thơm ấy tỏa khắp trong nước. Người đi xe, ngựa, không nghe khí uế, nơi nào cũng có các loại cây hoa quả như cây Đa-ma-la, cây Ca-ni-ca- ra, cây Vô ưu, cây Bối-đa, cây Sa-la, cây Đế-la-ca, cây Long hoa, cây Mạc-câu-la, cây A-để-mục-già, cây Bá-tra-la. Các cây này có rất nhiều hoa, trái. Chim Anh võ xá-lợi, chim Ca-lăng-tần-già, chim Câu-kế-la… Ở giữa các tầng hàng cây hót líu lo những âm thanh vi diêu. Trong thành ngoài nội có ao hồ suối chảy róc rách, thường mọc những loại hoa đẹp như hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-mẫu-na, hoa Bôn-tra-lợi-ca… Tất cả sự phồn vinh như vậy đều đầy đủ trang nghiêm.
Đức Phật bảo thầy Bí-sô:
-Lúc ấy vua Nguyệt Quang ở nơi phố chợ, các ngã đường và nơi bốn cổng thành, chất đầy các vật tốt đẹp như vàng, bạc, châu, báu, xe voi, xe ngựa, xe tải, thực phẩm, y phục, nệm lót, thuốc thang. Rồi nhà vua đánh trống vàng, tuyên bố với mọi người: Nguyệt Quang Thiên tử, đem các tài vật bố thí cho tất cả mọi người, ngài sẽ cung cấp tùy theo ý mong cầu của mọi người.
Tất cả chúng sinh cõi Nam thiệm-bộ châu đều đến vương thành xin những vật bố thí. Ai cũng được đầy đủ và được giàu sang, không có một ai ra về với sự nghèo thiếu.
Vua Nguyệt Quang lại suy nghĩ: “Tuy các chúng sinh không có ai nghèo thiếu nhưng về vật dụng, đối với ta còn chưa được bình đẳng.” Nhà vua lại đem các loại y phục tốt đẹp và châu báu quý giá nhất, mão gắn ngọc anh lạc, nệm lót, thực phẩm… bố thí cho chúng-sinh được giàu sang tốt đẹp, đều bằng với vua Nguyệt Quang; cung điện thành ấp, lầu gác vườn rừng…, tất cả đều được trang hoàng đẹp đẽ như cõi trời Đao-lợi.
Có bảy mươi hai trăm ngàn na-do-tha người thường ở trong thành Hiền thạch. Thành ấy có hai ngàn năm trăm vị đại thần, trong đó có hai vị phó tướng. Một người tên Đại Nguyệt và một người tên Trì Địa, cả hai đều có dung mạo đoan chánh, phước đức thuần hậu, trí tuệ sâu xa, tài cao hiểu rộng. Họ thường đem pháp Thập thiện giáo hóa chúng sinh.
Một hôm phó tướng Đại Nguyệt nữa đếm nằm mộng thấy mão của vua đội bỗng biến thành màu khói đen. Lại có quỷ đến đứng phía trên đầu vua đoạt mão của ngài rồi đi. Đại Nguyệt tỉnh giấc, rất hoảng hốt lo sợ sẽ cố điều chẳng lành. Phó tướng suy nghĩ: “Vua của ta từ mẫn, ban bố cho tất cả chúng sinh, không làm trái ý người đến xin. Chắc chắn sẽ có người ác đến xin đầu nhà vua.” Phó tướng suy nghĩ như thế rồi, liền dùng bảy báu làm thành một cái đầu, nếu như có kẻ đến xin ta sẽ đem cái đầu này thay thế.
Lúc ấy phó tướng Trì Địa cũng thấy một giấc mộng. Ông ta thấy thân thể vua Nguyệt Quang bị phân tán thành bốn phần, liền cho mời vị Bà-la-môn đoán mộng xem tốt hay xấu. Vị Bà-la-môn thưa:
-Giấc mộng này rất xấu, chắc chắn có người phương xa đến xin đầu nhà vua.
Trì Địa nghe xong, thương cảm rơi lệ: Vì sao vua của ta lại mắc phải đại họa này?
Khi ấy một vạn ba ngàn năm trăm đại quan thân cận đều thấy ác mộng như: Tràng phan chúc ngược xuống đất, trống vàng đánh không kêu, ân ái chia lìa, khóc la thương xót… Những giấc mộng như vậy, họ đem ra bàn bạc với nhau: Nếu vua gặp điều không may thì ai sẽ cứu giúp tất cả chúng sinh? Chúng ta làm sao được an ổn?
Vua Nguyệt Quang bảo các đại thần:
-Tuổi thọ của ta đã hết, việc bố thí cho chúng sinh không được gián đoạn.
Lúc ấy trong núi Hương túy, có đại Bà-la-môn tên Ác Nhãn, nhiều trí thông minh, rất giỏi kỹ thuật, ông ta biết vua Nguyệt Quang ở nơi bốn cửa thành mở hội đại bố thí, nhà vua đánh trống truyền rao khắp cả bốn phương, ai cần vật gì ngài đều cung cấp đầy đủ. Bấy giờ ta đến đó xin vua cái đầu, nói xong Ác Nhãn xuống núi Hương túy. Trời, người ở trong núi biết tên Bà-la-môn đến xin vua cái đầu, họ vô cùng đau đớn than:
-Khổ thay, khổ thay! Nhà vua có lòng từ mẫn luôn làm lợi lạc cho quần sinh. Nếu như Ngài mất đi thế gian thật là bạc phước.
Khi trời, người than vãn như vậy, trời đất trở nên đen tối, mặt trời, mặt trăng không xuất hiện, các dòng thác khô cạn, cuồng phong thổi đến làm đá đổ cát bay, cây cối gãy ngã, mặt đất rung chuyển, có rất nhiều hiện tượng bất thường xảy ra như thế.
Cách thành không xa, có một vị Tiên nhân chứng đắc ngũ thông tên là Di-thấp-phạ-nhĩ-đát-ra cùng với năm trăm quyến thuộc, thường đem lòng từ mẫn che chở chúng sinh. Khi thấy hiện tượng xấu xảy ra như vậy, ông rất lo lắng buồn rầu nói với Ma-noa-pha-ca:
-Chắc là có tai họa đến với đức vua, chúng ta biết làm thế nào để giúp ngài?
Trời, người và các Khẩn-na-la trong hư không đều rơi lệ lả-chả như mưa. Tất cả người dân đều ôm lòng lo sợ.
Bà-la-môn Ác Nhãn khi sắp đến thành, vị trời giữ thành đến thưa với vua Nguyệt Quang:
-Hôm nay có kẻ từ núi Hương túy đến đây ôm lòng sát hại, muốn xin đầu vua. Đức vua không được nghe theo hắn, nên bảo trọng thân mình, giữ Thánh thể bình an.
Vua nghe xong sinh tâm vui mừng ca ngợi:
-Lành thay! Ta sẽ được bố thí viên mãn.
Khi ấy Bà-la-môn Ác Nhãn liền vào vương thành, vị trời giữ cửa trông thấy người Bà-la-môn xấu ác khôn khéo quỷ quyệt, liền chận lại ngoài cửa không cho vào.
Vua Nguyệt Quang biết người Bà-la-môn đã đến nhưng không được vào thành, liền bảo phó tướng Đại Nguyệt:
-Có người Bà-la-môn từ núi Hương túy đến đây muốn gặp ta, ngươi hãy ra lệnh mở cửa cho người ấy vào, không được cản trở. Đại Nguyệt vâng lời, thưa với vị Thiên nhân giữ cửa, hãy để cho người Bà-la-môn ấy vào.
Đại Nguyệt hỏi người Bà-la-môn:
-Ông đến để cầu việc chi?
Người Bà-la-môn đáp:
-Ta nghe vua Nguyệt Quang thương xót mọi loài, nên mở hội đại bố thí. Nếu ai có lòng mong cầu nhà vua đều được tất cả. Nay ta đến đây muốn xin đầu nhà vua.
Đại Nguyệt nói:
-Này Bà-la-môn, đầu nhà vua do máu mủ hợp thành, cuối cùng rồi cũng sẽ tan rã hư hoại. Bây giờ nếu ông xin được thì ông sẽ dùng nó để làm gì? Ta có cái đầu làm bằng bảy báu, lại có nhiều vàng bạc châu báu ta sẽ cung cấp đầy đủ cho ông, nhờ đó con cháu ông được giàu sang mãi mãi.
Bà-la-môn nói:
-Ta chỉ xin cái đầu chứ không xin châu báu.
Khi đó, hai vị đại thần kêu khóc như mưa, buồn bã đau đớn:
-Chúng ta làm thế nào để thoát khỏi tai họa này?
Người Bà-la-môn đi đến chỗ nhà vua cúi lạy rồi đứng qua một bên, chắp tay thưa:
“Tôi nghe đức vua có lòng từ mẫn bố thí khắp tất cả mọi loài. Hôm nay tôi đến đây chỉ xin cái đầu của nhà vua, mong ngài không trái với lòng từ bi mà hoan hỷ bố thí cho tôi.
Bồ-tát chí cầu Vô thượng trí,
An trụ pháp tối thắng thanh tịnh
Mong ngài từ mẫn mau bỏ đầu
Đạt đến viên mãn hạnh bố thí.
Vua Nguyệt Quang chắp tay nói kệ:
Cha mẹ đã sinh thân bất tịnh
Người xin đầu, ta hoan hỷ cho
Bản nguyện từ nay thành viên mãn
Khiến ta chóng đến quả Bồ-đề.
Vua Nguyệt Quang nói với người Bà-la-môn:
-Ngươi sẽ không hài lòng với cái đầu của ta, bởi vì nó được hợp thành xương, tủy, máu huyết, da thịt liên kết nhau không sạch sẽ, nhưng ta đem bố thí cho ngươi để ngươi được toại nguyện.
Người Bà-la-môn trong lòng vô cùng vui mừng. Nhà vua muốn cắt đầu nên bỏ mão xuống. Khi ấy mão của tất cả mọi người trong cõi Nam thiệm-bộ châu đều rơi xuống đất, ai nấy cũng kinh hoàng, Hai vị phó tướng không nỡ thấy nhà vua xả bỏ thân mạng, nên họ đến nơi khác tự vẫn, do nhờ sức thiện căn nên họ được sinh lên cung Đại Phạm.
Bồ-ma Dạ-xoa ở trong hư không lớn tiếng xướng rằng:
-Khổ thay, Thiên tử! Nay sắp mạng chung.
Lại có trăm ngàn ức người, vội vã đến cung vua khóc lóc thảm thiết, thương cảnh chia lìa. Nhà vua thuyết pháp an ủi khiến cho họ phát đạo tâm.
Người Bà-la-môn nói:
-Nếu vua bỏ đầu nên đến chỗ thanh tịnh.
Nhà vua đáp:
-Ta có một vườn hoa tên Ma-ni bảo tạng, hoa quả sum suê, suối chảy ao tắm… tất cả đều trang nghiêm, hoàn hảo đệ nhất. Ta đến đó bỏ đầu, ý ngươi thế nào?
-Nhà vua mau đến đó.
Vua Nguyệt Quang cầm kiếm đi đến vườn hoa, đứng dưới gốc cây Chiêm-bặc, nói với người Bà-la-môn:
-Bây giờ ta bố thí đầu, ngươi đến cắt đi.
-Sao nhà vua không tự mình cắt đầu, lại sai ta cầm kiếm? Đó chẳng phải là hạnh bố thí.
Khi ấy có vị trời giữ vườn thấy sự kiện như vậy, thương khóc rơi lệ nói với người Bà-la-môn:
-Ngươi là kẻ đại ác, Thiên tử Nguyệt Quang có lòng từ mẫn vô biên, đem lại lợi ích cho khắp quần sinh. Sao ngươi đến đây làm hại mạng sống của nhà vua?
Nhà vua bảo vị trời:
-Chớ nói những lời như vậy làm trở ngại việc thù thắng. Ta đã ở trong vô lượng đời quá khứ làm Đại quốc vương, ở trong khu vườn này xả bỏ đầu đã ngàn lần, lúc đó hàng trời, người đều không làm ngăn ngại ta. Xưa kia để cứu hổ đói ta đã bỏ thân mạng… Vượt hơn Từ Thị bốn mươi kiếp, lúc đó trời người cũng không làm chướng ngại. Ngày hôm nay các ông nên phát tâm tùy hỷ sẽ được lợi ích thù thắng.
Vua Nguyệt Quang lại bảo Trời, Rồng, Bát bộ, tất cả Thánh hiền:
-Nay ta bố thí đầu không vì cầu làm Luân vương, không cầu sinh lên cõi trời, không cầu làm Ma vương, không cầu làm Đế Thích, không cầu làm Phạm vương. Ta vì cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, khiến cho người chưa được hóa độ sẽ hồi tâm được hóa độ, người được hóa độ sẽ mau được giải thoát, người được giải thoát sẽ chứng tịch diệt viên mãn cứu cánh đến bờ giác ngộ. Ta nguyện sau khi mạng chung, xá-lợi như hạt cải màu trắng, ở nơi vườn Ma-ni bảo tạng xây một tháp lớn để cho tất cả chúng sinh lễ bái cúng dường xem nghe tùy hỷ, sau khi chết đều được sinh lên cõi trời, phát tâm Bồ-đề ra khỏi cõi tử sinh.
Nhà vua phát nguyện xong, Bà-la-môn nói:
-Vua xả bỏ thân thể thật hy hữu. Ở đời vị lai chóng thành Phật đạo.
Nhà vua đem đầu tóc buộc vào cành cây Vô ưu, rồi cầm kiếm bén tự chặt đầu mình.
Lúc bấy giờ Tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách. Trong hư không các vị trời ca ngợi:
-Lành thay! Lành thay! Hôm nay Thiên tử Nguyệt Quang sẽ thành Phật.
Trời mưa hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nạp-ma, hoa Câu-mẫu-na, hoa Mạn-đà-la và các loại hương bột, hương thơm Chiên-đàn… để cúng dường vua Nguyệt Quang. Họ dùng gỗ thơm Chiên-đàn thiêu thân vua Nguyệt Quang và thâu lấy xá-lợi, ở trong vườn Ma-ni và bốn ngã đường, xây mỗi nơi một cái tháp, luôn luôn cúng dường các thời hiện tại, vị lai. Tất cả chúng sinh ở trong khu vườn này, đi đứng ngồi nằm và ở trước tháp chiêm bái đảnh lễ cúng dường, sau khi chết được sinh lên Dục thiên và Phạm thiên.
Đức Phật bảo các thầy Bí-sô:
-Vua Nguyệt Quang thuở xưa nay chính là Ta, còn hai vị phó tướng Đại Nguyệt và Trì Địa nay chính là Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên. Bà-la-môn Ác Nhãn nay là Đề-bà-đạt-đa. Do vì nhân duyên này, nay ở trước mặt Phật hai ngài xin nhập diệt.
Các thầy Bí-sô nghe lời Đức Phật dạy đều hoan hỷ, tín thọ phụng hành, lễ Phật lui ra.
ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
HÌNH TƯỢNG ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT CÙNG VỚI 2 VỊ CẬN SỰ ĐẠO MINH VÀ MẪN CÔNG
Hiện nay, trong các chùa ở Hàn Quốc thờ tượng đức Điạ Tạng, phần lớn đều có tượng của cha con Đạo Minh (Văn Các lão nhân), Mẫn Công (một nhà sư trẻ và một ông lão) đứng hầu hai bên.
Tương truyền :
Ngoài những sự tích trong kinh nêu trên lại còn một sự tích Lịch sử Phật giáo Hàn Quốc ghi rằng :
Ngài Địa Tạng Bồ tát tục danh Kim Kiều Giác (Kim Kyo-gak), sanh vào thế kỷ thứ VII, năm 696 TL, tại nước Tân La (Silla), hiện nay là Hán Thành, thuộc Nam Hàn.
Ngài vốn là một Hoàng tử, sống trong lầu son nhung lụa, ở cung vàng điện ngọc, thế nhưng tính Ngài lại thích đạm bạc, không bị ảnh hưởng bởi nếp sống vương giả phong lưu đài các, mà chỉ chăm lo học hỏi và ham đọc Thánh hiền.
Đức tướng trang nghiêm, lòng Từ bi thuần hậu của Ngài thì khó có ai sánh kịp.
Vào năm Vĩnh Huy đời Đường Cao Tông, sau khi tham khảo hết Tam giáo, Cửu lưu và Bách gia chư tử thì Ngài bèn buông lời cảm thán: “So với Lục kinh của Nho gia, Đạo thuật của Tiên gia, thì lý Đệ nhất Nghĩa đế của nhà Phật là thù thắng hơn hết, rất hợp với chí nguyện của ta.” Sau đó lập chí xuất gia vào lúc 24 tuổi.
Sau khi xuất gia, Ngài ưa đến chỗ vắng vẻ tu tập Tham thiền nhập định, nhân đây bèn nghĩ đến việc hành cước, tìm một nơi thanh vắng để tĩnh tu. Ngài chuẩn bị thuyền bè, đem theo một ít hành trang và lương thực, đồng thời dắt theo con Bạch khuyển (chó trắng) tên Thiện Thính, đã theo Ngài từ lúc xuất gia.
Ngài một mình tự lái thuyền rời bến Nhân Xuyên (Incheon), trương buồm ra khơi, tùy theo hướng gió mà đi, sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, đến cửa sông Dương Tử (Trung Hoa).
Thuyền bị mắc cạn trên bãi cát, Ngài bèn bỏ thuyền đi bộ lên bờ, tiếp tục cuộc hành trình. Sau nhiều ngày lang thang, ngài đến chân núi Cửu Tử ở huyện Thanh Dương, tỉnh An Huy.
Thấy phong cảnh nơi đây hùng vĩ, sơn xuyên tú lệ, ngài bèn quyết định ở lại. Ngài đi dọc theo triền núi lên phía trên cao để khảo sát, phát giác khoảng giữa các ngọn núi là một vùng đất bằng phẳng, cảnh trí nên thơ vô cùng tịch mịch, bèn trèo lên mỏm đá bên cạnh một khe nước suối trong và thong dong tự tại với năm tháng mà ngồi tĩnh tọa.
Một hôm, đang lúc tĩnh tọa, bổng có một con rắn độc nhỏ đến cắn vào đùi, nhưng ngài vẫn an nhiên bất động. Giây lát sau, một người đàn bà tuyệt đẹp từ trên vách núi bay xuống, đến bên cúi lạy, đưa thuốc cho ngài và nói: “Đứa bé trong nhà rắn mắt, xúc phạm tôn nhan. Thiếp xin tạo một con suối mới để đền đáp lỗi lầm của cháu nhỏ.”
Nói xong biến mất. Chưa đầy một sát na, trong vách núi phụt ra một dòng suối cuồn cuộn chảy xuống. Từ đó, ngài không còn phải lao nhọc đi xa gánh nước về. (Đây là dòng suối Long Nữ Tuyền nổi danh ở núi Cửu Hoa).
Tương truyền, dưới chân núi có vị Trưởng giả tên Mẫn Công (Văn Các lão nhân), là người thích bố thí cúng dường chư tăng. Ông thường tổ chức cúng dường trai tăng hàng trăm vị. Thế nhưng, mỗi lần như thế, đều thiếu một vị Tăng. Vì vậy, mỗi lần tổ chức ông đều tự thân lên núi mời Ngài. Nếu không, công đức cúng dường không được viên thành.
Không bao lâu sau, vì muốn mở rộng đạo trường để quảng độ chúng sanh, ngài Địa Tạng bèn đến xin Mẫn Công (Văn Các lão nhân) cúng dường một mảnh đất. Mẫn Công nói: “Tùy ngài muốn bao nhiêu con xin cúng bấy nhiêu.”
Ngài Địa Tạng nghe thế, tung tấm Cà sa lên không. Tấm Cà sa tỏa rộng bao trùm toàn núi Cửu Hoa. Mẫn Công (Văn Các lão nhân) thấy thế bèn vô cùng hoan hỷ, đem toàn bộ núi Cửu Hoa cúng dường.
Mẫn Công (Văn Các lão nhân) có một người con trai, ngưỡng mộ đức hạnh của ngài, bèn đến xuất gia, hiệu là Đạo Minh. Sau đó, Mẫn Công(Văn Các lão nhân), vì muốn thuận tiện trong việc nghe pháp, bèn lễ bái Đạo Minh làm thầy. Việc này trở thành một giai thoại nổi tiếng trong chốn Thiền môn.
Hiện nay, trong các chùa ở Hàn Quốc thờ tượng đức Điạ Tạng, phần lớn đều có tượng của cha con (Văn Các lão nhân), Mẫn Công (một nhà sư trẻ và một ông lão) đứng hầu hai bên.
Ngài Địa Tạng thường Tham thiền nhập định. Ngoài việc giảng kinh thuyết pháp, ngài thường mướn người sao chép bốn bộ kinh lớn của Đại thừa Liễu nghĩa, đem đi bố thí khắp nơi.
Năm Chí Đức thứ nhất (TL 765), có danh sĩ Gia Cát Tiết, ngụ tại một làng dưới chân núi, hương dẫn các kỳ lão trong làng, lên núi thưởng ngoạn. Đến vùng đất bằng trên núi, thấy những áng mây trôi lững lờ trên bầu trời xanh với ánh nắng chan hòa ấm áp, tiếng suối reo từ khe núi chảy ra nghe róc rách, tiếng chim hót líu lo khiến cho mọi người bị phong cảnh tú lệ làm mê hoặc, đi dần vào rừng sâu, chợt thấy có một vị Thiền sư Tọa thiền trên mõm đá bên cạnh dòng suối, đang nhắm mắt nhập định. Bên cạnh là một cái đảnh cổ gảy một chân, trong đó có một ít gạo trộn lẫn đất trắng.
Một lát sau, vị Thiền sư xuất định, lấy gạo đất nấu chín rồi ăn. Ăn xong, ngài lại tiếp tục tĩnh tọa Tham thiền. Những người trong nhóm thấy thế, vô cùng cảm động bèn đến thưa với ngài: “Thưa! Ngài tu khổ hạnh như vầy, đây là lỗi của dân làng chúng con!”
Chẳng bao lâu, mọi người trong làng cùng nhau xây cất một ngôi Thiền đường rộng lớn hơn nữa, quanh năm đều cúng dường thực phẩm không hề gián đoạn.
Năm Kiến Trung thứ nhất (TL. 780), vị Quận thú Trương Nghiêm, nhân vì kính ngưỡng đạo hạnh cao quý sùng kính công nghiệp hoằng pháp của ngài, bèn tâu lên Đức Tông Hoàng Đế, ban sắc dụ chính thức kiến tạo Tự viện. Bấy giờ Đạo tràng của Ngài Địa Tạng mới thực sự hùng vĩ trang nghiêm.
Lúc ấy, các vị tăng nước Tân La (Silla) nghe danh, có đến vài trăm người tìm đến thân cận tu học với Ngài. Dần dần, số người càng lúc càng đông, thực phẩm trở nên thiếu thốn. Một hôm, ngài ra phía ngoài chùa, cho đào rất nhiều đất trắng nhuyễn như bột, dự định bổ túc vào phần ăn.
Mọi người trong chùa, cảm mến bởi đức hạnh của Ngài, đều cùng nhau lên tiếng: “Nguyện dùng pháphỷ thực và Thiền duyệt thực nuôi sống tuệ mạng, không dùng vật thực nuôi sống thân mạng”.
Điều này chứng tỏ mọi người trong chùa không lấy thân mạng làm trọng. Thời đó, mọi giới trong Phật giáo đều tỏ lời khen ngợi, ca tụng họ là “Nam mô Các Vị Tăng Gầy Ốm phương Nam”.
Một hôm vào mùa hạ, năm Trinh Nguyên thứ mười (TL. 795), Ngài triệu tập Tăng chúng vào Chánh điện để từ giã. Mọi người cảm thấy hoang mang không rõ lý do gì. Lúc ấy, các ngọn núi phát ra tiếng khóc gào thét thảm thiết của muôn thú, những tảng đá lớn ầm ầm rơi xuống vực sâu, khắp rừng cây cỏ đều ngẩn ngơ sầu, mây che phủ kín trời đất đều rung chuyển và mây che phủ kín, mùi hương tỏa khắp núi rừng. Ngài an tọa kiết già Thị tịch. Hưởng thọ 99 Xuân.
Sau khi Viên tịch, nhục thân của ngài được đặt trong một động đá. Ba năm sau, Tăng chúng mở động ra, thấy nhục thân vẫn còn nguyên vẹn, tướng mạo giống hệt như lúc sanh tiền.
Đại chúng đem nhục thân đến Bảo tháp trên ngọn Thần Quang Lãnh. Dọc đường, nghe văng vẳng như có tiếng tích trượng vàng khua động theo nhịp chân của mọi người. Kinh dạy: “Bồ tát bị nạn, hình hài vang động ”. Đây là một dữ kiện chân chánh, không chút hoài nghi, chứng minh sự ứng hóa của ngài Bồ Tát Địa Tạng.
Hơn nữa, nếu như cung kính lễ bái nhục thân của ngài Kim Địa Tạng, thì sẽ được lợi ích giống như Kinh Địa Tạng đã nói.
Từ đó đến nay trải qua hàng thiên niên kỷ, Phật tử và mọi người khắp nơi trên thế giới đều không ngại gian lao, đều phát tâm đến Thánh tích Cửu Hoa Sơn, Trung Quốc để cùng chiêm bái nhục thân của ngài Địa Tạng Bồ Tát.
Đặc biệt, mỗi năm vào ngày vía của Ngài vào ba mươi tháng bảy AL, tại Thánh địa Cửu Hoa Sơn, trong vòng mấy mươi dặm, dầy đặc những Phật giáo đồ, nam nữ lão ấu, đến tham dự nhất bộ nhất chiêm (một bước một xá) hoặc nhất bộ nhất bái (một bước một lạy), đủ chứng tỏ Bồ tát đã kết duyên Bồ đề rộng rãi, sức Từ bi cảm hóa sâu dày !
Đến đầu thế kỷ thứ VIII, nhân gian truyền nhau rằng: Bồ tát Địa Tạng thị hiện thành Thái tử Triều Tiên tục danh Kim Kiều Giác (Kim Kyo-gak), xuất gia tu Phật, rồi vân du sang Trung Quốc, tại núi Cửu Hoa, hóa hiện thần lực nhiếp độ quần sanh.
Và từ đó về sau, Cửu Hoa Sơn trở thành đạo tràng của Bồ tát Địa Tạng. Từ khi Bồ tát Địa Tạng ứng hiện tại Cửu Hoa Sơn, niềm tin về sự cứu độ của Ngài trong lòng Phật tử ngày càng sâu rộng. Khách từ phương xa hành hương đến, chiêm bái và cầu nguyện tại Cửu Hoa Sơn ngày càng đông.
Rồi theo thời gian, vì nhu cầu tu tập của Tăng Ni cũng như Phật tử, hàng trăm Tự viện được xây dựng trên dãy núi kỳ vĩ này. Cửu Hoa Sơn hưng thịnh nhất vào đầu và giữa triều đại nhà Thanh và suy giảm từ cuối nhà Thanh trở về sau…
Ngày nay, dù không còn hưng thịnh như xưa, nhưng Cửu Hoa Sơn vẫn là một trong Tứ đại Danh Sơn linh thiêng bậc nhất của Phật Giáo Trung Hoa, và là điểm thu hút du khách cả nước và du khách Quốc tế.
Từ Trung Quốc, Phật giáo truyền đến Triều Tiên. Qua ngõ Triều Tiên, Phật giáo truyền vào Nhật Bản đầu thế kỷ thứ VI TL. Trước khi Phật giáo truyền đến Nhật Bản, người dân nơi đây phần lớn tin theo Thần đạo. Họ tôn thờ nhiều vị thần linh.
Khi Phật giáo du nhập và phát triển, dân chúng Nhật Bản đã lưu truyền nhiều câu chuyện về Bồ tát Địa Tạng như là hiện thân của vị Bồ tát chăm lo và cứu giúp những người bất hạnh và khổ đau. Họ tin rằng, Ngài luôn bảo hộ những lữ khách đi đường, phụ nữ có thai, người lính cứu hỏa… đặc biệt trẻ em bất hạnh.
Ngài luôn hiện thân để bảo vệ trẻ em bị ngược đãi, bạo hành trong gia đình và xã hội. Với những trẻ thơ bất hạnh yểu mạng, Ngài thường đến bên bờ sông Nại Hà, dòng sông mà tín ngưỡng dân gian Á Đông tin là linh hồn phải đi qua trước khi vào điện Diêm La nghe Diêm vương phán xét tội hình, an ủi và che chở các em.
Nhiều người tin rằng, những trẻ em yểu mạng, vì thương nhớ cha mẹ và người thân, linh hồn các em thường ở lại bên bờ Nại Hà nhặt những viên đá cuội xây lâu đài và thành quách để tưởng đến người thân. Các em rất khổ sở vì nhớ cha, nhớ mẹ và nhớ anh chị, Bồ tát Địa Tạng thường đến bên các em vỗ về, an ủi và cùng các em nhặt đá xây thành, giúp các em tích tạo công đức, và đưa các em qua sông Nại Hà.
Nhiều người khác lại tin rằng, các em có tội bất hiếu vì khiến cha mẹ và người thân đau buồn, nên các em bị hình phạt bên bờ Nại Hà, bị qủy dữ hiếp đáp, và Bồ-tát Địa Tạng thường hiện thân cứu giúp các em, đưa các em qua dòng sông Nại Hà.
Vì tôn thờ Bồ tát Địa Tạng là vị Bồ tát bảo vệ trẻ em, nên phần lớn tranh tượng của Ngài thường biểu hiện giống và liên quan đến trẻ thơ. Có tranh tượng, khuôn mặt Ngài trông giống trẻ em, rất ngây thơ, hồn nhiên. Có tranh tượng, trên tay Ngài bồng một em bé, dưới chân lại có vài ba em bé khác đang níu kéo Tăng bào và thiền trượng của Ngài. Và tượng Ngài thường được tôn thờ bên những dòng sông, con suối.
Hằng năm, người dân Nhật Bản thường tổ chức lễ tưởng nhớ công ơn của Ngài dành cho trẻ thơ vào ngày 24 tháng 7 AL. Ngày nay, tín ngưỡng Bồ-tát Địa Tạng đã trở thành tín ngưỡng chung của Phật giáo và dân gian. Và sau Lễ Vu Lan rằm tháng 7 AL thì các Chùa thường khai kinh Địa Tạng tụng cho đến ngày cúng vía Ngài vào cuối tháng 7 tức ngày 30.
Việt Nam ta chưa có lưu hành và thọ trì Địa Tạng Sám pháp kinh, trong khi Hàn Quốc thì Kinh này rất thông dụng cho các chùa thường tổ chức cho quý Phật tử thọ trì Địa Tạng Sám pháp kinh.
Mong rằng gương hạnh Đại Nguyện Vương Bồ tát mãi thắp sáng trong tâm thức của nhân thế trần gian và nhất là những người cầm cân nãy mực điều hành đất nước khắp nơi trên thế giới để cùng nhau một Đại nguyện góp phần khắc phục những xung đột chiến tranh, hậu quả thiên tai dịch họa, xứng với câu kinh Phật : “Tâm bình thế giới bình ” nói chung và riêng thịnh trị thái bình của mỗi quốc độ.
Địa Tạng (Bồ tát), tiếng Phạn là Khất thoa để bá sa (Ksitigarbha), tiếng Trung Hoa gọi đủ là “U minh Giáo chủ Địa Tạng vương Bồ tát”. Ngài giáng sinh vào ngày 13 tháng 7 âm lịch.
Địa Tạng Bồ tát ở trên cung trời Đao Lị (là cảnh trời thứ 2 trong 6 cõi trời của Dục giới trên đỉnh núi Tu Di cõi Diêm Phù Đề). Theo kinh Phật, ngài là vị Bồ tát hiện thân trong Lục đạo (sáu đường gồm: Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh, A tu la, Nhân gian, Thiên thượng, chính là sáu đường luân hồi của chúng sinh) để cứu độ mọi chúng sinh từ trên trời cho tới địa ngục, cho nên gọi là Đại nguyện, có nghĩa là muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian.
Kinh Địa Tạng bản nguyện chép: Khi đức Phật Thích Ca lên cung trời Đao Lị để thuyết pháp cho Thánh mẫu nghe, giữa chốn đại hội đủ hết thảy chư Phật, chư Bồ tát và các vị thánh chúng, Ngài ân cần phó chúc (dặn dò) cho Bồ tát Địa Tạng rằng: “Ta đem việc chúng sinh ở cõi trời và cõi người chưa thoát khỏi tam giới, lục đạo, còn bị ở trong nhà lửa, nhờ cậy ở Bồ tát đừng để cho chúng sinh ấy đày đọa trong mọi nơi ác đạo”. Kinh còn chép: “Ở vào khoảng sau khi đức Thích Ca Mâu Ni diệt độ, mà đức Di Lặc chưa ra đời thì đức Bồ tát Địa Tạng thường hiện thân vào cõi nhân gian, cõi thiên giới và cõi địa ngục để cứu khổ cho chúng sinh”. Bởi có lời phó chúc của Phật và lại có thần thông rất lớn nên Địa Tạng Bồ tát thường hay biến hiện lên xuống trong lục đạo để hóa độ chúng sinh.
Ngài giáo hóa cho chúng sinh đang sống trong lục đạo Nhẫn nhịn, an nhiên bất động như đất lớn (đại địa), tĩnh lặng mà sâu kín như tàng chứa những điều bí mật, nên gọi là Địa Tạng.
Trong Mật giáo, Bồ tát Địa Tạng còn có mật hiệu là Bi Nguyện Kim Cương hoặc là Dữ Nguyện Kim Cương. Trong Kim Cương giới, thị hiện là vị Bồ tát ở phương Nam tên là Bảo Sinh Như Lai. Trong Thai Tạng giới, Địa Tạng là vị Trung Tôn Địa Tạng Tát Đóa trong chín bậc tôn. Trong thời gian từ sau khi đức Thích Ca nhập Niết bàn cho đến ngày trước khi đức Phật Di Lặc ra đời, Bồ tát Địa Tạng là người cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Bồ tát nguyện cứu độ hết chúng sinh trong lục đạo rồi mới nguyện thành Phật.
Bồ tát hiện thân trong cõi người, cõi trời và trong địa ngục với dáng đầu tròn, tay cầm viên ngọc quý, tay kia cầm tích trượng. Cũng có thuyết nói Bồ tát Địa Tạng là hóa thân của Diêm La Vương. Còn chỉ sau khi đức Thích Ca tịch diệt khoảng 1.500 năm, Bồ tát giáng sinh trong một gia đình ở nước Tân La (tức Triều Tiên ngày nay), họ Kim, niên hiệu là Kiền Giác. Năm Vĩnh Huệ thứ 4, ngài 24 tuổi thì cắt tóc đi tu.
Bồ tát thường dắt theo một con chó trắng rất giỏi đánh hơi, cưỡi thuyền đến đất Giang Nam, phủ Trì Châu. Ở phía Đông huyện Thanh Dương, phủ Trì Châu có ngọn núi Cửu Hoa, ngài lên đỉnh núi tọa thiền 75 năm. Đến năm Khai Nguyên thứ 6 thời Đường, vào đêm 30 tháng 7 thì thành đạo. Lúc đó ngài 99 tuổi.
Bấy giờ có vị quan trong triều là Mẫn Công, vốn sốt sắng làm việc thiện, mỗi lần cúng trai cho 100 vị sư tăng. Một hôm thiếu mất một vị, Mẫn Công bèn lên núi, mời ngài Đông tăng tức Bồ tát Địa Tạng tới dự lễ cho đủ số. Ngài Địa Tạng xin một mảnh đất rộng bằng cái áo cà sa, Mẫn Công đồng ý. Bồ tát cầm áo tung lên, che kín cả ngọn núi, mọi người đều vui vẻ.
Người con của Mẫn Công hết sức khâm phục, xin được xuất gia theo Địa Tạng, sau này là Đạo Minh Hòa thượng. Về sau, Mẫn Công cũng tự nguyện thoát tục, theo con là Hòa thượng Đạo Minh và nhận làm thầy học. Do vậy, ngày nay người ta thấy hai pho tượng hai bên Địa Tạng Bồ tát, là theo tích đó. Lại nữa, điện Nhục Thân ở trên núi Cửu Hoa, tương truyền là nơi Bồ tát Địa Tạng tọa thiền thành đạo. Nơi đó, lâu ngày hóa thành chùa, tức là Địa Tạng Vương cung. Muốn lên tới nơi phải đi qua 81 bậc đá vô cùng hiểm trở. Ở đó còn rất nhiều di tích của Bồ tát Địa Tạng.
Do Bồ tát Địa Tạng có nhiều phép biến hóa nên ngài có sáu danh hiệu gọi là Lục Địa Tạng như sau:
1) Đầu đà Địa Tạng là hóa thân ở địa ngục, tay cầm tràng phan hình đầu người; 2) Bảo châu Địa Tạng, là hóa thân trong đạo Ngã quỷ, tay cầm bảo châu (ngọc quý); 3) Bảo ấn Địa Tạng, là bậc hóa thân trong đạo Súc sinh, duỗi tay kết bảo ấn Như ý; 4) Trì Địa Tạng, là hóa thân trong đạo A tu la, thường hai tay nâng quả đất, biểu hiện cho sự nâng đỡ, ủng hộ A tu la; 5) Trừ cái chướng Đại Tạng là hóa thân trong nhân loại, trừ 8 món khổ che lấp nhân loại; 6) Nhật quang Địa Tạng là bậc hóa thân trong cõi Trời, ánh sáng soi tỏ Ngũ suy của người và trời mà diệt trừ mọi phiền não.
Kinh Liên hoa tam muội chép: “Địa Tạng Bồ tát có hiệu là Thắng quân Địa Tạng, đầu đội mũ trụ, mặc áo giáp Đà la ni, đeo con dao lớn “Kim cương trí”, vác cành phướn “Phát âm tu hành”, cầm thanh gươm “Trảm ác nghiệp phiền não quân”. Hai bên tả hữu có hai đồng tử là Chướng thiện và Chướng ác đứng hầu”. Đó là hình dung cái tướng của Địa Tạng rất dũng mãnh về sự đánh phá những điều tàn ác làm cho những sự quang minh từ thiện được thắng lớn vậy. Kinh Địa Tạng bản nguyện còn chép nhiều chuyện như nói ngài thường hiện ra người nhi nữ để cứu cho cha mẹ thoát khỏi nơi địa ngục mà sinh về cõi Cực lạc. Bởi vậy, người ta gọi kinh ấy là sách Hiền kinh của nhà Phật. Trong kinh có chỗ nói rõ: Khi người ta chết rồi, cứ 7 ngày vong nhân bị một lần xét hỏi về cái nghiệp quả của mình, đến ngày thứ 49 là ngày bảy lần bảy, thì định xong: Ai có cái nghiệp thế nào phải chịu như thế. Kinh ấy lại tả rất tường tận các thứ địa ngục ở âm phủ. Vậy nên người ta theo đó mà làm ra các động Thập điện ở trong chùa để trừng giới những kẻ gian ác.
BỔN SƯ THÍCH CA,A NAN, CA DIẾP :
Hình Tượng Đức Phật Bổn Sư Thích Ca ngồi giữa và hai vị tôn giả trợ thủ Ca Diếp và A Nan Đà đứng hầu 2 bên .
A Nan Đà và Ca Diếp là hai đại đệ tử của Đức Phật. Ngài A Nan Đà có tướng mạo trang nghiêm, trí nhớ mạnh mẽ. Ngài Ca Diếp mệnh danh là tu khổ hạnh bậc nhất. Hai ngài thường đứng trong thư thế thị giả.
Đức Phật Thích Ca là bậc Thầy gốc của chúng ta. Ngài là bậc giác ngộ thấu rõ chân lý của vạn pháp, thị hiện trong hình tướng của loài người, đi vào cõi Sa bà đề khai sáng Ánh đạo vàng cho nhân gian. Khi bạn niệm câu: “Nam mô bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật”, chữ “bản” nghĩa là “gốc”, “sư” là “thầy”, “Bản sư” chính là “Bậc Thầy gốc”. Đức Phật Thích Ca là bậc Thầy gốc của tất cả chúng sinh ở cõi Sa bà. Chữ “Thích Ca Mâu Ni” là tiếng Ấn Độ, khi dịch nghĩa sang tiếng Trung Quốc, tên Ngài có hai nghĩa là Năng nhân và Tịch mặc.
Năng nhân
“Nhân” ở đây là nhân đức, nhân từ, và “năng” là năng lực, sức mạnh. “Năng nhân” có nghĩa là “sức mạnh của lòng từ bi”. Sức mạnh này đã trở thành một năng lực vĩ đại để Đức Phật có thể cứu khổ cho chúng sinh một cách vô ngã. Đối với Đức Phật Thích Ca, tình thương mà Ngài dành cho chúng sinh luôn bình đẳng, và trở thành sức mạnh có thể chuyển hóa được khổ đau cho chúng sinh, giúp chúng sinh đạt được giác ngộ.
Trong Kinh kể rằng, một đời trước của Đức Phật Thích Ca, Ngài từng là một vị Thái tử. Trong một lần vào rừng, Ngài nhìn thấy năm mẹ con hổ đang vật vã vì đói. Hổ mẹ quá đói và không còn sữa cho con bú nên kiệt sức chờ chết. Chứng kiến cảnh đó, Thái tử rất đau lòng và muốn bố thí luôn thân mạng của mình cho hổ đói. Ngài đã đưa đầu mình vào miệng hổ nhưng do đã quá kiệt sức nên hổ mẹ cũng không ăn nổi. Ngài bèn dùng dao rạch thân thể mình cho máu chảy ra đầm đìa. Lúc rạch thân mình như vậy Ngài phát ra lời nguyện: “Trong kiếp này tôi dùng thân máu thịt để bố thí cho năm mẹ con hổ, và mong rằng trong kiếp vị lai khi thành Phật, tôi sẽ dùng tuệ mạng để cứu cho các vị thoát khỏi luân hồi!”. Khi phát nguyện xong, máu từ thân Ngài chảy ra đầm đìa và hổ mẹ liếm được máu đó mới có sức để ăn thịt Ngài. Trong kiếp sau này khi Ngài thành Phật, năm mẹ con hổ đói chính là năm anh em ông Kiều Trần Như, năm đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Khi Ngài vừa thành Phật, người đầu tiên Ngài độ và chứng qua A la hán chỉ sau một bài pháp về Tứ diệu đế của Ngài chính là năm anh em ông Kiều Trần Như.
Đức Phật thuyết bài pháp đầu tiên cho 5 anh em ông Kiều Trần Như
Lòng từ bi của Ngài đã trở thành năng lực để Ngài có thể thị hiện vô số thân, bất cứ nào cầu đến là Ngài có thể cứu khổ. Sức mạnh của lòng từ bi đã khiến cho Đức Phật dù trong bao nhiêu kiếp cũng không nhàm mỏi cứu độ chúng sinh. Trong kinh Bồ Tát Giới, đích thân Đức Phật Thích Ca nói: “Ta đã tám nghìn lần đến thế giới Sa bà”. Đức Phật đã đến cuộc đời của chúng ta từ vô thủy kiếp, không nhàm mỏi mặc dù vừa dẫn chúng sinh ra con đường sáng, chúng sinh đã vượt khỏi tay Ngài chạy về con đường tối. Nhưng sức mạnh của lòng từ bi vẫn khiến Ngài có đủ am nhẫn để dẫn dắt cứu độ chúng sinh.
Tịch mặc
“Tịch mặc” ở đây có thể hiểu là “trí tuệ”. “Tịch” là có trí tuệ thấu đáo ngoại cảnh. “Mặc” là có trí tuệ để đối diện chính nội tâm mình. Trong cuộc sống, những thành bại, thịnh suy, vinh nhục đều không làm dao động được Đức Phật. Bằng chứng là Ngài đã tu khổ hạnh 6 năm trong núi tuyết. Trong 6 năm ấy, Ngài đã đối diện với đói, rét, với lời chê bai, chọc tức. Tới mức độ chim đến làm tổ trong tai Ngài vẫn ngồi bất động. Khi Ngài chứng được thần thông, Ngài còn nghe thấy tiếng chim cãi nhau trong tai nhưng Ngài vẫn không bất động. Còn chúng ta thì luôn làm nô lệ cho ngoại cảnh, nô lệ cho cái thân này. Chúng ta ham ăn, ham ngủ, ham thụ hưởng tức là chúng ta đang làm nô lệ cho cái thân và ngoại cảnh. Cảnh thịnh thì chúng ta vui, cảnh suy thì chúng ta buồn. Chúng ta giống như những con rối trên sân khấu cuộc đời: “Tâm mình là con rối - để cho đời sớm tối giật dây”. Còn Đức Phật, trong 6 năm tu tập, mỗi bữa Ngài chỉ ăn một hạt mè. Dĩ nhiên cái đói khát đó không dẫn Ngài đến sự giác ngộ nhưng cũng phải chứng minh được nghị lực kiên cường của Ngài.
Trong kinh Đức Phật dạy rằng: “Chiến thắng trăm quân chưa phải là chiến công oanh liệt. Người chiến thắng chính mình mới là người oanh liệt nhất”. Trong cuộc sống thế gian, có thể chúng ta đánh gục rất nhiều đối thủ trên thương trường, trong cơ quan nhưng lại không đánh gục được ham muốn. Người anh hùng nhất là người chiến thắng được chính mình. Khi đối trước mọi biến động của ngoại cảnh, tâm Ngài vẫn bất động cho nên chúng ta gọi Ngài là Tịch.
Chữ “Mặc” mang nghĩa nội tâm. Trong đêm thành Đạo của Đức Phật, khi đó có đủ các loại ma: ma sân, ma tham, ma danh vọng, ma ái… xuất hiện. Gọi là ma không phải là ma bên ngoài mà chính là trạng thái tâm của người trước khi thành đạo. Nhưng Đức Phật không để các trạng thái tâm như tham-sân-giận-ghét-ái dục-vô minh chi phối. Kinh Mười hai nhân duyên có vẽ hình ảnh một bà già mù còng lưng dẫn dắt chúng ta, không phải một kiếp mà hàng bao nhiêu kiếp. Bà già đấy trong Kinh gọi là Vô minh. Bà già ấy đã mù nhưng lôi chúng ta hết kiếp này sang kiếp khác, quanh quẩn trong sáu đạo luân hồi không ra khỏi được.
Lòng từ bi của Đức Phật Thích Ca ban trải khắp cứu độ muôn loài, trí tuệ của Ngài rực sáng để bình lặng trước cuộc đời. Như vậy danh hiệu của Đức Phật Thích Ca gồm cả hai khía cạnh Từ bi và Trí tuệ. Đức Phật nào cũng sẽ có đủ hai phần như vậy. Cả cuộc đời của Ngài là tấm gương sáng về Từ bi và Trí tuệ. Là đệ tử của Phật, chúng ta phải thừa hưởng được gia tài Ngài để lại cho chúng sinh, đó không phải là kho báu thế gian thông thường mà chính là Từ bi và Trí tuệ. Gia tài ấy mỗi chúng ta đều có nhưng vì chúng ta quên mất không biết sử dụng nên chúng ta vẫn mãi quanh quẩn trong vòng khổ luân hồi mà thôi!
Tháng Phật đản là thắng duyên vô cùng đặc biệt cho việc tích lũy công đức và trí tuệ. Mọi công đức, trí tuệ tích lũy đều sẽ tăng trưởng gấp hàng trăm ngàn lần.
Hãy cùng tích lũy công đức trong tháng Phật đản bằng việc thực hành Phật pháp, làm các thiện hạnh, bố thí, cúng dàng, phóng sinh, ăn chay… để hồi hướng công đức cho sự an lạc, cát tường, thành tựu giác ngộ của mình và hết thảy chúng sinh.
Hai vị tôn giả trợ thủ Ca Diếp và A Nan Đà
Trong hàng đệ tử Phật, ngài A Nan được tôn xưng là đa văn đệ nhất. Tương truyền, thời ấy Đức Phật không cho phụ nữ xuất gia vì ngài e rằng thân phận nữ giới nặng tình cảm, sẽ gây phiền nhiễu cho đoàn. A Nan Đà khẩn khoản và tha thiết cầu xin Đức Phật cho cho bà Di Mẫu cùng 500 thể nữ xuất gia tu đạo.
Ngài có công lớn trong việc cầu xin Đức Phật cho hàng phụ nữ xuất gia tu đạo. Vì vậy, Ni chúng và hàng nữ Phật tử luôn biết ơn công đức của Ngài. Ngài là vị tổ sư tiếp sau Ca Diếp và thông thường, tượng ngài sẽ đứng bên phải của Đức Phật Thích Ca .
Ngài Ca Diếp có tiếng là hạnh Đầu Đà hay có nghĩa là người tu khổ hạnh nhất. Ca Diếp là đại đệ tử thân tín của Đức Phật, ngài có đầy đủ phước tướng, tư chất thông minh và hết lòng giữ gìn phạm hạnh. Ngài thường đứng trong tư thế thị giải cùng ngài A Nan Đà. Tượng ngài Ca Diếp sẽ được trưng bày phía bên tay trái của Đức Phật Thích Ca .
Ma ha ca diếp
Ma ha ca diếp (tiếng Phạn: महाकश्यप, Mahākāśyapa, Mahakassapa) còn gọi là Tôn giả Ca Diếp hay Đại Ca Diếp là một người Bà la môn xứ Ma Kiệt Đà, cha tên Ẩm Trạch, mẹ tên Hương Chí. ông là một trong thập đại đệ tử của Tất đạt đa Cồ đàm và là người tổ chức và chỉ đạo đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất. Ma ha ca diếp nổi tiếng có hạnh Ðầu đà (tu khổ hạnh) nghiêm túc nhất và là người đứng đầu Tăng già sau khi Tất đạt đa Cồ đàm mất.
Ma-ha-ca-diếp là sơ tổ của Thiền tông Ấn Ðộ, được đứcTất đạt đa Cồ đàm truyền tâm ấn. Trong tranh tượng, Ma-ha-ca-diếp cùng với A-nan-đà thường được thể hiện đứng 2 bên Tất đạt đa Cồ đàm.
Chứng quả vị A la hán
Sau 7 ngày đến ngày thứ 8 từ khi gia nhập đạo Phật, Ma ha ca diếp đắc quả A la hán, một phẩm Thánh cao nhất, đã giải thoát ông khỏi mọi phiền não thô thiển lẫn vi tế.
Rồi một thời gian khá lâu sau nầy, nhân trong một cuộc nói chuyện với A Nan Ðà, Ma ha ca diếp đã thuật lại giai đoạn "vỡ lòng" tu Phật của ông như sau:
"Bảy ngày đầu, bần đạo thọ dụng sự cúng dường của chư tín thí mà thân tâm chưa được giải thoát. Nhưng qua ngày thứ tám, Thánh quả A la hán đã hiện hữu trong tâm!"
A-nan-đà :
A-nan-đà (zh. 阿難陀, sa., pi. ānanda, bo. kun dga` bo ཀུན་དགའ་བོ་), cũng gọi ngắn là A-nan, dịch nghĩa là Khánh Hỉ (zh. 慶喜), Hoan Hỉ (zh. 歡喜), sinh 605 - 485 TCN. Theo tài liệu ghi nhận, A-nan sinh năm 605 TCN - là anh em chú bác với Đức Phật vì cha của ông, vua Amitodana, là em vua Suddhodana – tức Tịnh Phạn Vương, thân phụ của Đức Phật.
A-nan-đà gia nhập giáo hội hai năm sau ngày thành lập vào lúc 18 tuổi, trở thành thị giả thân cận của Đức Phật. A-nan-đà tham gia Tăng đoàn cùng hai người anh của ông là A-na-luật – vị A-la-hán được xưng tụng là Đệ nhất Thiên nhãn trong hàng Thanh văn của Phật – và Đề-bà-đạt-đa, người sau này ly khai khỏi Tăng đoàn. Tôn giả được tôn xưng là một trong Thập đại đệ tử của Phật Thích-ca Mâu-ni.
1. Tôn giả nổi tiếng với trí nhớ phi thường về những lời Phật dạy. Tôn giả là người xây dựng cơ bản giáo pháp trong lần kết tập thứ nhất và được xem là Nhị tổ của Thiền tông Ấn Độ. Ngoài ra, tôn giả cũng là người đầu tiên cung Phật phát minh ra "áo cà sa" - trang phục thường ngày về sau của các chư tăng, chư ni nhà Phật
Theo kinh sách, A-nan-đà được xem là người rất nhẫn nhục, hết lòng phụng sự đức Phật. Tôn giả chỉ chấp nhận làm người hầu cận cho Phật khi được Phật hứa rằng không vì thế mà được quan tâm hơn các vị khác. A-nan-đà cũng chính là người khám phá và trừ bỏ âm mưu giết Phật của Đề-bà-đạt-đa. Hơn ai hết, A-nan-đà bênh vực cho việc nữ giới được học hỏi giáo pháp. Nhờ sự can thiệp của Tôn giả mà Phật chấp nhận thành lập ni đoàn. Chính vì điều này mà trong lần Kết tập thứ nhất, A-nan-đà bị Tăng-già chê trách. Tương truyền rằng, bảy ngày sau khi Phật nhập Niết-bàn, A-nan-đà mới giác ngộ, đắc quả A-la-hán trong đêm trước lần kết tập thứ nhất. A-nan nhập Niết-bàn vào năm 485 TCN, ở tuổi 120 tuổi ở giữa sông Hằng (ranh giới giữa hai nước Magadha và Tì-xá-ly).
2. Nếu định nghĩa theo Ấn Độ giáo (Hinduism) thì A-nan-đà không phải là tâm trạng khánh hỉ được tạo ra bởi một đối tượng mà hơn nữa, nó là một niềm vui của một trạng thái nằm trên mọi tư duy nhị nguyên, những cặp đối đãi. Hệ thống triết lý Vedānta quan niệm rằng, một tâm thức thoát khỏi suy nghĩ—nghĩa là tâm thức không còn vướng mắc những khái niệm như sinh, tử, khổ não, nói chung là mọi tư duy—chính là A-nan-đà, sự an vui thuần túy. Khi miêu tả, diễn giải những danh từ rất trừu tượng như "Brahman", hệ thống Vedānta sử dụng thành ngữ "Sat-Cit-Ānanda", nghĩa là "Chân lý—Nhận thức tuyệt đối—A-nan-đà" và A-nan-đà ở đây là sự an vui tuyệt đối, vô lượng mà hành giả chỉ có thể cảm nhận được trong lúc nhập Định (sa. samādhi). Trong các dòng tu theo truyền thống của Đại sư Śaṅkara thì A-nan-đà là chữ cuối của nhiều danh hiệu, ví dụ như Vivekānanda.
Trong hàng đệ tử Phật, ngài A Nan được tôn xưng là đa văn đệ nhất. Tương truyền, thời ấy Đức Phật không cho phụ nữ xuất gia vì ngài e rằng thân phận nữ giới nặng tình cảm, sẽ gây phiền nhiễu cho đoàn. A Nan Đà khẩn khoản và tha thiết cầu xin Đức Phật cho cho bà Di Mẫu cùng 500 thể nữ xuất gia tu đạo.
Ngài có công lớn trong việc cầu xin Đức Phật cho hàng phụ nữ xuất gia tu đạo. Vì vậy, Ni chúng và hàng nữ Phật tử luôn biết ơn công đức của Ngài. Ngài là vị tổ sư tiếp sau Ca Diếp và thông thường, tượng ngài sẽ đứng bên phải của Đức Phật Thích Ca .
Ngài Ca Diếp có tiếng là hạnh Đầu Đà hay có nghĩa là người tu khổ hạnh nhất. Ca Diếp là đại đệ tử thân tín của Đức Phật, ngài có đầy đủ phước tướng, tư chất thông minh và hết lòng giữ gìn phạm hạnh. Ngài thường đứng trong tư thế thị giải cùng ngài A Nan Đà. Tượng ngài Ca Diếp sẽ được trưng bày phía bên tay trái của Đức Phật Thích Ca .
Ma ha ca diếp
Ma ha ca diếp (tiếng Phạn: महाकश्यप, Mahākāśyapa, Mahakassapa) còn gọi là Tôn giả Ca Diếp hay Đại Ca Diếp là một người Bà la môn xứ Ma Kiệt Đà, cha tên Ẩm Trạch, mẹ tên Hương Chí. ông là một trong thập đại đệ tử của Tất đạt đa Cồ đàm và là người tổ chức và chỉ đạo đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất. Ma ha ca diếp nổi tiếng có hạnh Ðầu đà (tu khổ hạnh) nghiêm túc nhất và là người đứng đầu Tăng già sau khi Tất đạt đa Cồ đàm mất.
Ma-ha-ca-diếp là sơ tổ của Thiền tông Ấn Ðộ, được đứcTất đạt đa Cồ đàm truyền tâm ấn. Trong tranh tượng, Ma-ha-ca-diếp cùng với A-nan-đà thường được thể hiện đứng 2 bên Tất đạt đa Cồ đàm.
Chứng quả vị A la hán
Sau 7 ngày đến ngày thứ 8 từ khi gia nhập đạo Phật, Ma ha ca diếp đắc quả A la hán, một phẩm Thánh cao nhất, đã giải thoát ông khỏi mọi phiền não thô thiển lẫn vi tế.
Rồi một thời gian khá lâu sau nầy, nhân trong một cuộc nói chuyện với A Nan Ðà, Ma ha ca diếp đã thuật lại giai đoạn "vỡ lòng" tu Phật của ông như sau:
"Bảy ngày đầu, bần đạo thọ dụng sự cúng dường của chư tín thí mà thân tâm chưa được giải thoát. Nhưng qua ngày thứ tám, Thánh quả A la hán đã hiện hữu trong tâm!"
A-nan-đà :
A-nan-đà (zh. 阿難陀, sa., pi. ānanda, bo. kun dga` bo ཀུན་དགའ་བོ་), cũng gọi ngắn là A-nan, dịch nghĩa là Khánh Hỉ (zh. 慶喜), Hoan Hỉ (zh. 歡喜), sinh 605 - 485 TCN. Theo tài liệu ghi nhận, A-nan sinh năm 605 TCN - là anh em chú bác với Đức Phật vì cha của ông, vua Amitodana, là em vua Suddhodana – tức Tịnh Phạn Vương, thân phụ của Đức Phật.
A-nan-đà gia nhập giáo hội hai năm sau ngày thành lập vào lúc 18 tuổi, trở thành thị giả thân cận của Đức Phật. A-nan-đà tham gia Tăng đoàn cùng hai người anh của ông là A-na-luật – vị A-la-hán được xưng tụng là Đệ nhất Thiên nhãn trong hàng Thanh văn của Phật – và Đề-bà-đạt-đa, người sau này ly khai khỏi Tăng đoàn. Tôn giả được tôn xưng là một trong Thập đại đệ tử của Phật Thích-ca Mâu-ni.
1. Tôn giả nổi tiếng với trí nhớ phi thường về những lời Phật dạy. Tôn giả là người xây dựng cơ bản giáo pháp trong lần kết tập thứ nhất và được xem là Nhị tổ của Thiền tông Ấn Độ. Ngoài ra, tôn giả cũng là người đầu tiên cung Phật phát minh ra "áo cà sa" - trang phục thường ngày về sau của các chư tăng, chư ni nhà Phật
Theo kinh sách, A-nan-đà được xem là người rất nhẫn nhục, hết lòng phụng sự đức Phật. Tôn giả chỉ chấp nhận làm người hầu cận cho Phật khi được Phật hứa rằng không vì thế mà được quan tâm hơn các vị khác. A-nan-đà cũng chính là người khám phá và trừ bỏ âm mưu giết Phật của Đề-bà-đạt-đa. Hơn ai hết, A-nan-đà bênh vực cho việc nữ giới được học hỏi giáo pháp. Nhờ sự can thiệp của Tôn giả mà Phật chấp nhận thành lập ni đoàn. Chính vì điều này mà trong lần Kết tập thứ nhất, A-nan-đà bị Tăng-già chê trách. Tương truyền rằng, bảy ngày sau khi Phật nhập Niết-bàn, A-nan-đà mới giác ngộ, đắc quả A-la-hán trong đêm trước lần kết tập thứ nhất. A-nan nhập Niết-bàn vào năm 485 TCN, ở tuổi 120 tuổi ở giữa sông Hằng (ranh giới giữa hai nước Magadha và Tì-xá-ly).
2. Nếu định nghĩa theo Ấn Độ giáo (Hinduism) thì A-nan-đà không phải là tâm trạng khánh hỉ được tạo ra bởi một đối tượng mà hơn nữa, nó là một niềm vui của một trạng thái nằm trên mọi tư duy nhị nguyên, những cặp đối đãi. Hệ thống triết lý Vedānta quan niệm rằng, một tâm thức thoát khỏi suy nghĩ—nghĩa là tâm thức không còn vướng mắc những khái niệm như sinh, tử, khổ não, nói chung là mọi tư duy—chính là A-nan-đà, sự an vui thuần túy. Khi miêu tả, diễn giải những danh từ rất trừu tượng như "Brahman", hệ thống Vedānta sử dụng thành ngữ "Sat-Cit-Ānanda", nghĩa là "Chân lý—Nhận thức tuyệt đối—A-nan-đà" và A-nan-đà ở đây là sự an vui tuyệt đối, vô lượng mà hành giả chỉ có thể cảm nhận được trong lúc nhập Định (sa. samādhi). Trong các dòng tu theo truyền thống của Đại sư Śaṅkara thì A-nan-đà là chữ cuối của nhiều danh hiệu, ví dụ như Vivekānanda.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét