Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2021

Hoàng Mẫu Huấn Tử Thập Giới



Hoàng Mẫu Huấn Tử Thập Giới


LỜI TỰA





Nước có nguồn, cây có cội. Chúng ta, từ vô thủy đến nay đã trãi vô số kiếp, chỉ biết được sinh thân ta là cha mẹ ở Hậu Thiên mà quên mất người Mẹ linh tính của ta là Vô_Cực_Lão_Mẫu ( Diêu Trì Phật Mẫu ), Đấng Chí Tôn, ở Tiên_Thiên ngày đêm mong đợi những người con đang lạc loài ở cõi phàm sớm trở về đoàn tụ


"HOÀNG MẪU (DIÊU TRÌ PHẬT MẪU) HUẤN TỬ THẬP GIỚI" là huấn thư do Đấng Chí Tôn từ bi đích thân xuống phàm ,qua trung gian đồng tử mà phê thành. Nội dung trong thư đã tiết lộ những gì mà xưa nay Thánh Phật chưa từng nói đến. Chúng ta đều là những Nguyên Thai Phật Tử đều ở Tiên Thiên, vì khai Thiên lập địa mới phụng mệnh xuống phàm,để tạo thành thế gian. Trải qua các hội Dần,Mẹo,Thìn,Tỵ,Ngọ đã hơn năm vạn năm, nay khí số tiến dần đến hội Mùi và vạn vật dần dần sẽ từ hữu trở về vô. Nay đương thời phổ độ, là lúc phản bổn hoàn nguyên. Nhưng hoàng hôn đã đến mà vẫn chưa thấy những người con lạc lối trở về, Đấng Từ Mẫu mới phê sách Thập Huấn để dặn dò đinh ninh. Mong rằng đọc xong huấn thư của Mẹ, chúng ta đều noi gương Thánh Phật, phát tâm phổ độ chúng sinh, cùng nhau rời khỏi bể khổ ,như thế mới làm tròn được đạo hiếu đối với người Mẹ linh tính của ta



Giới cáo thứ 1



Giới cáo thứ nhất, cho nguyên phật tử, cùng nhau lắng nghe căn nguyên.
Huy động bút vàng, nay mẹ tiết lộ hết thiên cơ huyền diệu.







Nhớ lúc đương sơ, trời chưa phân chia, hỗn độn còn chưa rõ ràng

Mù mù mịch mịch, không người không ta, chỉ là một khối hư linh.

Cả thảy chín sáu ức Nguyên Phật Tử, cùng đoàn tụ nơi Tiên Thiên

Không có ưu sầu, không có phiền não, vui sướng tự tại an nhiên.

Nào Tiên huynh đệ, cùng Tiên tỉ muội, đều đến quây quần bên Mẹ.

Cứ theo mẹ đến, lại theo Mẹ đi, không chịu rời xa nửa bước.






Nơi Cực-Lạc-Quốc, tuỳ ý tiêu dao, mặc ý nô đùa đây đó;

Cỡi con rồng xanh, cỡi con phượng Hoàng, vô lượng tôn quý uy nghiêm;

Không sợ cái lạnh, không sợ cái nóng, không bị ràng buộc quản chế;

Không có âm dương, không có đối đãi, thể lý đơn thuần tự nhiên.

Những lúc rảnh rỗi, tuỳ ý ngao du, ngắm cảnh Tiên-Thiên diệu kỳ;

Nhàn hạ vô sự thì hoặc đánh cờ, hoặc lấy đàn khảy chơi;

Những khi đói thì ăn quả Tiên đào, khát thì uống rượu quỳnh tương;

Mình khoác áo tiên, mang giầy cỡi mây, vô cùng lộng lẫy.

Nói đến Vô Cực là miền thánh vực, nơi cảnh trời hoàn thiện nhất.

Tuy nơi lắng tịnh, nhưng lại ứng thông, nguồn gốc vạn hoá vạn loại.



Từ lúc bắt đầu, giao qua hội Tý là khí số đã đến.

Mẹ đã lệnh cho Thất Phật trị thế, lo liệu mọi thứ trong càn khôn.

Một vạn tám năm, khí số mới định, bầu trời mới được thành tựu;

Lại chờ đến khi hội Sửu mãn, phần địa mới được hoàn thành.



Thanh khí thăng lên, trở thành Thiên-Bàn, bố trí nhật nguyệt tinh tú;

Trược khí giáng xuống, ngưng tụ nên địa, kết thành hồ hải núi sông.

Cho đến hội Dần, Trời đất tương giao, nhật nguyệt được cùng hợp chiếu.

Âm dương tương hội, uyên ương tương hợp, vạn loại đều được sinh ra.

Đó chính là lẽ huyền diệu Tiên-Thiên, nguồn gốc khai sinh vạn vật.

Vô-Cực là tĩnh, Thái-Cực là động, Hoàng-Cực tức là Càn Khôn.

Đạo tức là Lý, Lý tức là Đạo, thể hư linh thật vi diệu.

Đạo sinh ra Nhất, Nhất sinh ra Nhị, Nhị lại tiếp tục sinh Tam.

Từ Nhất phân tán thành vạn hình thù, từ cái không đến cái có.

Lẽ ảo diệu này dù là thần tiên cũng khó giải thích trọn vẹn.

Trời thì đã thành, Đất cũng đã tựu, vạn vật đều được đầy đủ.

Nhưng nơi Đông Thổ không có loài người, còn khuyết thiếu nữ và nam.

Nên vào thời đó, Mẹ phải dùng kế, quả thực do bất đắc dĩ.

Mới hy sinh con, cả thảy chín sáu cùng nhau giáng xuống phàm trần.

Nhiều lần ra lệnh cho Nguyên-Phật-Tử đi xuống Đông Thổ sinh sống.

Nhưng xuống một lần là về một lần, không chịu ở lại trị phàm.

Trong tình trạng đó, thật bất đắc dĩ, Mẹ mới chế ra huyết tử.

Nơi Tam Sơn Pha, gạt cho say hết tất cả Bồ Tát Phật nam.

Mới thiết lập ra một ao tiên lớn, gọi đồng loạt đến tắm rửa.

Nhân cơ hội đó, Mẹ thu hồi hết áo giầy Tiên về Lý Thiên.

Các Nguyên-Phật-Tử sau khi tỉnh rượu, không được trông thấy mặt Mẹ,



Lại không tìm thấy Áo Tiên, Giầy Tiên đã cất giấu ở nơi đâu.

Lòng mẹ đau buồn, nhỏ rơi dòng lệ, lớn tiếng gọi Nguyên-Phật-Tử,

Các con hãy mau đi xuống Đông Thổ, đừng quyến luyến thêm chi nữa.

Nếu như là đem áo Tiên, giày Tiên mà giao lại cho các con,

Thì cũng không có đứa con nào chịu ở lại trần gian trị phàm.

Bẻ lấy cành cây, kết cùng lá cây, để mà che nắng chống lạnh.

Đói thì ăn trái cây, cây tùng cây bá, khát thì uống nước suối trong.

Chúng Phật-Tử nghe, giống như mất hồn, ai nấy đau xót khóc than.

Hỏi lại Mẹ rằng, cho đến lúc nào mới được trở về quê nhà.

Mẹ mới trả lời, cuối ngươn Tam Kỳ thì sẽ đại khai phổ độ.

Đích thân viết thư, đích thân gửi đến, đích thân độ các Phật-Nguyên.

Các con của Mẹ, lòng còn do dự, nên lại lớn tiếng than khóc.

Mẹ phải viết tiếp hợp đồng làm bằng, giao phó cho các Hoàng-Nguyên.









Kể từ lúc đó, các Nguyên-Phật-Tử mới chịu bôn ba Đông Thổ.

Trị vì thế giới, làm nam làm nữ mà dựng lập nên loài người.

Mẹ con phân chia, hai nơi Đông Tây, nên trong lòng đau như cắt.

Từ đó Phật-Tử, chịu mọi đau khổ, bị đời chiên tới xào lui.

Cho đến thời nay, đưa tay ra tính, đã trải qua sáu vạn năm.

Mỗi nghĩ đến con, tại thế chịu khổ, lòng Mẹ thổn thức không yên.

Nay đã đến lúc, thiên thời ứng vận, cũng là lúc Mẹ giáng Đạo.



Lệnh cho Tam-Phật bàn việc mạt hậu, lần cuối phổ độ thu viên.

Mẹ nói trước sau, lời lời chân thật, đều đã nói tận đáy lòng.

Chỉ mong Phật-Tử mau mau tới cầu Thiên Đạo Nhất Quán chân truyền.

Kịp thời bước lên, con đường kim tuyến, theo Mẹ phản hồi Lý Thiên.

Còn không tỉnh ngộ, truỵ lạc khổ hải, vĩnh viễn khó được trở thân.

Mẹ nói đến đây, không thể kìm nỗi, hai dòng lệ cứ nhỏ rơi…

Đành cho tạm ngưng Cơ Bút giây lát rồi Mẹ lại tiếp tục phê…



Hoàng Mẫu Huấn Tử Thập Giới

Giới cáo thứ 2










Giới cáo thứ 2 cho Nguyên-Phật-Tử cùng nhau lắng nghe chân đạo

Nay đương vốn là kiếp nạn Tam Kỳ, khổ đau không hình dung nổi

Trời đã sắp già, Đất cũng sắp tàn, khí số cũng đã sắp hết.

Mẹ không nhẫn tâm nhìn thấy tai kiếp làm tổn thương đến thân con.

Nên khai văn vận, buông thòng giác lộ, rãi xuống con đường kim tuyến.

Xiển dương Thiên Đạo, xưng danh Nhất-Quán, truyền đi khắp tận càn khôn.

Sai Phật Di Lặc chấp chưởng Thiên Bàn, vạn Bàng-Môn đều quy chánh.

Lệnh Phật Thiên-Nhiên chấp chưởng Đạo Bàn, là Đức Linh-Diệu hoá thân.



Ban cho Đại-Đỗ chưởng quản sắc lệnh, vạn Thần đều phải trợ Đạo.

Chư Phật Chư Chân mượn Cơ Bút giáng để mà thay trời tuyên hoá.

Tại nơi Tiên-Thiên mẹ không lưu giữ Tiên Phật Thần Thánh nào cả.

Mà Chư Bồ Tát cùng chúng Tiên-Chân đều đầu thai xuống phàm trần.



Nói đến trời lớn, nói đến đất lớn, duy mệnh Mẹ là lớn nhất.

Người thuận thì hưng, kẻ nghịch thì vong, phân chia một trời một vực.

Chỉ một lần này Đại Khai Phổ Độ, thời cổ xưa chưa từng có.

Từ thời vạn cổ, một chân kỳ duyên, vừa đúng gặp phải lúc này.

Trên độ Thần Tiên, dưới độ quỷ hồn, giữa độ Thiện Nam Tín Nữ

Thu ngàn Bàng-Môn lẫn vạn giáo phái, cùng trở về nguồn gốc chính.

Kỳ Mạt-hậu này, truyền cho Chân Đạo, đây là Thiên-cơ huyền diệu.

Minh sư nhất chỉ, khai mở khoá vàng, được hiện xuất thân kim cang.










Hợp Đồng Tí 子 Hợi 亥 Hài 孩





Trước tiên là truyền cho cổ Hợp-Đồng, nguyên chứng trở về Linh-Sơn.

Kế tiếp điểm nhãn, khai Huyền Quan Khiếu là Pháp môn kỳ Bạch Dương,

Sau nữa truyền cho Vô-Tự-Chân-Kinh, chính là thông thiên thần chú.

Động niệm chân kinh, được Tiên Phật Thánh đến hộ trì thân con.

Cầu được Thiên Đạo, bảng nơi Tiên Thiên, có ghi đủ tên đủ họ.

Sổ nơi Địa Phủ cũng được xoá tên, thoát khỏi khổ hải luân hồi.












Sáng nghe thấy Đạo, chiều chết được chứng là nhờ Minh Sư nhất chỉ

Chỉ điểm Huyền-Quan, bảo vật vô giá, trực thẳng về cõi Diêu Trì.

Pháp Thượng Thượng Thừa, một bước trực siêu, rất giản dị ngay trước mặt.

Thoát khỏi phàm thể, kết thành Thánh Thể, được hưởng lạc Trường Xuân.

Đó chẳng phải là một lời nói xuông, mà có bằng chứng thực tế.

Vả lại còn cái sắc thân giả tạm có thể chứng minh rõ ràng,

Mùa Đông không cứng, mùa Hạ không thối, dung nhan tươi tốt không đổi.

Cái này vốn là một Túi Da Thối nhưng cũng đắc chứng kim thân.

Nếu như không tin, Mẹ gọi Chân-Linh đến đàn có thể nghiệm chứng.

Mọi sự mọi việc đều chân đều thật, nào có lời hư giả !

Chân Thiên-Đạo tất có chân Thiên-Mệnh, trong tam giới không có hai.

Còn có Đạo Thống Tổ Tổ tương truyền, tiếp nối cho đến ngày nay.

Thời Nhị-Cửu-Bàn bàn việc Thu-Viên là lúc Cung-Trường ứng vận.

Người tu tại gia, cũng như xuất gia, đều được thành đạo chứng quả.

Đương thời hiện nay, Chân-Cơ triển khai phổ biến khắp mọi nơi.

Chư Thiên Tiên Phật cùng Chư Thần THánh đều giáng hạ Đông-Lâm

Khắp cả các nơi hiện sự mầu nhiệm để thức tỉnh con mê muội.

Hoặc là giáng cơ, hoặc là mượn khiếu thay Mẹ độ hoá Nguyên-Chân.

Ở trong khổ hải, chèo lái Pháp Thuyền cứu vớt Chín-hai nguyên linh.

Việc của Tam-Thiên tại nhân gian làm, Trời phải mượn nhờ người.



Các con cần phải siêng năng hơn nữa, ân cần tận tâm tinh tiến.

Thay trời truyền Đạo, thế Thiên Tuyên hoá, trợ giúp Sư Tôn của con.

Đạo nhờ nơi người mới được triển khai, người lại nhờ Trời trợ lực.

Trời người hợp lại chèo lái Pháp Thuyền để cùng dựng lập Công-Huân.

Như hiện thời nay Đạo ở Phương Bắc triển khai hoá độ từ lâu.

Lại khó chọn ra người đại hiền lương, chân thực trong cái chân thực.

Cho nên hôm nay Mẹ mới phê xuống huyết thư mười giới khuyên giải.

Để thôi thúc thêm con ngoan của Mẹ cùng nhau nghe được tri âm.

Tu Thiên-Đạo này không thể tách rời với việc khai xiển độ hoá.

Phát lòng từ bi, khổ khẩu bà tâm chỉ dẫn người không mệt mỏi.

Tu Đạo tất yếu phải lập chí hướng, lòng phát Đại Nguyện xung thiên.

Quý là ở chỗ nguyện lập phải hành, chánh kỷ rồi mới hoá người.

Chỉ mang hư danh, không thực sự làm như khoai sùng bù vào đủ số.

Nếu giống như thế thì khó trở về cõi cực lạc quê xưa.

Hoặc lại là mang bộ mặt nạ giả, phô trương biểu diễn xong chuyện.

Tới phút sau cùng tất nhiên cũng bị truỵ lạc khổ hải trầm luân.

Lúc làm lúc ngưng. Lúc tiến lúc thối, nửa đường rồi lại phế bỏ.

Đánh tan Linh Quang, nén dưới Âm Sơn, vĩnh viễn khó trở lại thân.

Mẹ hy vọng các con, các Nguyên Phật Tử hãy sớm mau tỉnh ngộ.

Dũng mãnh tiến lên, có thuỷ có chung, nhất định thành chân quả.

Mau mau độ hoá chúng sanh đến khi Ngoại-Công mãn, Nội-Công viên.



Quả vị thượng thừa, toà sen ngàn lá, là dựng lập tại phàm trần.

Dù cho con là Đại-La Kim Tiên hay là Phật Tổ giáng thế

Không có chân công, không có thật thiện cũng khó trở về Diêu Lâm.

Nghe lời Mẹ khuyên, không thể tiếp tục không chịu phấn đấu

Nếu như do dự, chậm trễ một bước thì khó kiến lập công lao.

Là người Lãnh Tụ, là người Đàn-Chủ đều có trách nhiệm trọng đại.

Vì một người ngu làm vạn người truỵ, vừa hại mình còn hại người.

Nếu như lại là một người rõ lý, trí tuệ bao la rộng lớn,

Có thể dẫn Hiền, hoá độ Đại Chúng, dìu dắt vạn người thành Chân.

Nay hiểu được thì người Bàn-Sự-Viên, người Đàn-Chủ, người Lãnh Tụ,

Mỗi người cần phải phát lòng cương nghị, cần phải siêng năng hơn nữa.

Tìm phương pháp nào có thể độ được người rời mê, lên bờ giác;

Dùng phương pháp nào có thể thôi thúc chúng sanh cùng phát đạo tâm.

Tâm phải tựa mây, tuỳ lúc biến hoá, ý như nước chảy mọi địa hình.

Tuỳ theo cao thấp, tuỳ lúc vuông tròn có thể co có thể duỗi.

Hoà theo trào lưu là một lỗi lớn, mà phải lấy Lý làm chuẩn.

Quét bỏ tham sân, đoạn diệt si ái, để cho thanh tịnh pháp thân.

Công trình càng cao thì càng nguy hiểm. lúc nào cũng phải cẩn thận.

Lên tới cực đỉnh mà truỵ lạc xuống là rơi vạn trượng vực sâu.

Leo càng lên cao thì té càng nặng, lý nhất định là như thế.

Các con thông minh thì nào có thể làm người ngu si dại dột.



Tôn kính Tam-Uý, suy nghĩ Cửu Tư, lời nói hành động đi đôi.

Tuân hành Tam Tỉnh, thường giữ Tứ Vật mới xứng gọi là Hiền-Chân.

Tuân huấn thực hành sẽ đăng Thánh-Vực được hưởng cực lạc muôn đời.

Không tuân thủ theo, mặc ý mình làm sẽ an thân nơi địa ngục.

Mẹ lại phê xong một thiên huấn ngữ, chư Phật Tử phải khắc ghi.

Tam Tài nghỉ ngơi, tĩnh toạ chốc lát, Mẹ sẽ phê tiếp huấn văn.



Chú Thích



Tam tỉnh

Tôi mỗi ngày tự cảnh tỉnh mình 3 điều:

1.Làm cho người có trung thành không?

2.Cái học được có ôn lại không?

3.Giao du với bạn bè có giữ chữ tín không?



Tứ vật

Không hợp lễ chớ nhìn,

không hợp lễ chớ nghe,

không hợp lễ chớ nói,

không hợp lễ chớ động (làm).




Hoàng Mẫu Huấn Tử Thập Giới

Giới cáo thứ ba







Giới cáo thứ ba dạy Nguyên-Phật-Tử mau sớm hiểu rõ tâm tánh

Lãnh ngộ Chân-Lý, hiểu Chân Thiên-Đạo, chân không nhưng lại bất không.

Hữu tức là Vô, Vô tức là Hữu, Hữu Vô vốn là một thể.

Sắc tức là không, Không tức là Sắc, nhưng chẳng phải Sắc chẳng phải Không.

Nhớ lúc ban sơ, khí chưa phân chia, hỗn độn còn chưa rõ ràng.

Lý là một khối, mờ mờ mịch mịch, không âm thanh, không mùi vị.









Vô-Cực động tức xuất hiện Thái Cực, âm dương mới được định ra.

Chia ra tam tài, phân ra tứ tượng, lại hoá ra tiếp Ngũ Hành.

Phân ra lục hầu, liệt ra thất chánh, cùng với cửu cung bát quái.

Chia ra thuận nghịch, xuất hiện tròn khuyết, sinh ra muôn loại vạn vật.

Nói đến ảo diệu, bàn tới hư vô, mấy ai có thể hiểu thấu !

Cổ linh quang này đây là Chân Lý, huyền diệu chí thanh chí hư.

Không có âm dương, không có đối đãi, không tăng và cũng không giảm.

Lại không có hình, lại không có tượng, nhưng chẳng phải “ không” trống không.

Không có xanh đỏ, không có nóng lạnh, không tĩnh lại cũng không động.

Nguồn gốc vạn hoá. Là chân huyền cơ thì đều ẩn tại trong đó.

Tồn tại ẩn hình, vô sắc vô tướng, thật là chí huyền chí diệu.

Nhìn thì chẳng thấy, lắng cũng chẳng nghe, hoà lẫn Bao la Sắc Không.



Không có biến động, không có hiển chương, vô vi mà sinh vạn hoá.

Là “ Chân chúa tể ”, là “ Đại Trung Tâm ” của sự tiến hoá vạn linh.

Cao thì vô thượng, siêu chín tầng trời, vượt ra ngoài giới Sắc Không.

Sâu thì vô đáy, bao quát địa phủ, luôn cả Thập Điện U Minh.

Quán xuyến Càn Khôn, quán xuyến Tam giới, không chỗ nào mà không quán.

Trời cùng với đất, hợp với vạn loại, rời Lý là trở thành Không.

Miễn cưỡng nói “ Đạo ”, xưng là “ Chân-Nhất ”, để được vãn hoá vũ trụ.

Đây mới chính là chân thật căn nguyên, Vô Cực xưa nay không thay đổi.

Đạo ở nơi trời nên trời trong thanh, bàn cờ mới được xoay chuyển.

Bố trí tinh tú, vận hành nhật nguyệt, đều do Nhất Khí lưu hành.

Đạo ở tại Đất nên đất ngưng kết, bao quát thành núi sông.

Sanh ra muôn loài, trưởng dưỡng vạn vật, đều nhờ từ Nhất mà thành.

Đạo ở nơi người, nên người được sanh và có tri giác vận động.

Người vốn có Đạo, nhưng không biết có, cho nên khó được siêu sanh.

Lý của Tam Giáo thì không có hai, đều do mệnh của Mẹ giáng.

Người đến truyền Đạo vốn là truyền cái Chân Lý hư-vô diệu-linh.

Lão gọi “ Kim Đan”, Phật gọi “ Xá Lợi”, Nho giáo gọi là “ Thiên-Tánh”.

Đều vốn là nói cái Linh Quang này, tuy khác danh nhưng cùng Lý.

Ngàn xưa đến nay không có hai pháp, đạo cũng không có hai đạo.

Chư Tiên Phật Thánh truyền tâm ấn tấm, đều vốn là cùng một tông.

Hiểu được một pháp là biết bạn pháp, mọi pháp đều được thấu hiểu.






Trong ngàn kinh Phật, lẫn vạn Thánh Thư đều cùng một lý quán thông.

từ khi Tam Thánh trở về Lý Thiên là lúc Niết-bàn ngưng độ.

Đường Kim Tuyến đứt, không còn truyền đạo, chỉ tồn giáo ở Phương Đông.

Cho đến thời nay đã ba ngàn năm mà không người nào minh hiểu.

Tẻ ra nhiều nhánh, vạn giáo phát triển, nhưng không hiểu được chân lý.

Vào thời buổi nay, phụng thiên thừa vận là lúc đại khai phổ độ.

Trời mở khoa thi, tuyển bạt anh hào, để chọn dự Hội Long Hoa.

Trên thì tiếp nối, huyền bí vô cực, cùng “ áo chỉ ” của Tam Thánh.

Dưới thì hướng Đạo, độ hoá chúng sanh, cùng nhau được lên pháp thuyền.

Khẩu Quyết Chân Diệu, Pháp Thượng Thượng Thừa, mấy ai có thể minh hiểu ?

Muốn tìm Chân-Đạo, phải cầu Cung-Trường, Đại Đạo tất sẽ thành.

Đắc được Thiên Đạo, phải mau hành công, mượn cái giả tu chân.

Đạo tuy là không, nhưng chẳng phải không, vạn cái có đều thành không.

Kiếp sống con người, tựa như hạt bắp, lênh đênh giữa lòng biển cả.

Theo thuỷ triều lên, tuỳ thuỷ triều xuống, không phân biệt được Đông Tây.

Bị tửu sắc tài, làm mê mờ đi, nguyên lai Phật tánh.

Mãi tham thất tình, cùng nhiễm lục dục, mà che lấp đi bổn linh.

Làn sóng tình dục không lúc nào ngưng, nên bị tình ái khoá chặt.

Cứ tham vinh hoa, cứ luyến phú quý, mà mắc vào vòng lợi danh.

Nhanh như đá lửa, lẹ như điện chớp, làm sao có thể trường cửu.

Như là hoa đàm, chỉ chớp một cái, tức thì nghiệt quả kết thành.



Đám người mê muội, chúng đâu biết rằng cõi hồng trần là giả tạm.

Nhận lấy cái khổ, lại cho là sướng, khác chi con kiến con ruồi.

Trong khoảng thời gian đủ một trăm năm, ba vạn sáu ngàn mấy ngày,

Không nghĩ lại xem, bao nhiêu thời gian để cho thân được yên ổn.

Nhỏ rồi tới lớn, lớn lại tới già, già rồi không lâu sẽ chết,

Cái chua cái ngọt, cộng cái đắng cay thật là vô cùng thương tâm !

Sanh lão bệnh tử, những cái khổ này, mấy ai có thể thoát khỏi ?

Chỉ trong nháy mắt, là từ đứa bé trở thành ông cụ tóc bạc.

Đến thì tay trắng, đi thì tay không, một đồng cũng khó mang theo.

Chỉ còn lại một nấm mồ cô đơn, linh hồn thì xuống âm phủ.

Bất luận con là vương hầu phú quý, thưởng phạt phân định rõ ràng.

Súc sanh chuyển người, người chuyển súc sanh, để cho trả hết nhân quả.

Tính từ Hội Dần cho đến thời nay là đã có mấy vạn năm,

Vòng khổ luân hồi, mãi chuyển không ngừng, thật thê lương khó tả nổi !

Xuất ra khiếu này, nhập vào khiếu kia, chỉ là thay nhà đổi chỗ.

Khi Nam nhà Trương, lúc Nữ nhà Lý, màn nào rồi cũng thành công.

Càng chịu luân hồi, thì càng u mê, mỗi ngày một thêm trầm trọng,

Nên đã quên đi Mẹ ở Tiên Thiên là Mẹ phú cho Linh Tánh.

Người vốn là từ nơi Tiên-Thiên giáng đều một mạch núi Linh Sơn.

Ở Thánh không tăng, ở phàm không giảm, Thánh Phàm đều cùng một tông.

Con nào tỉnh ngộ là thành Thánh Hiền, thân được đăng miền Cực-Lạc.



Con nào mê muội, thì là phàm phu, truỵ lạc vào cõi U-Minh.

Chư Phật Thánh Tiên thì cũng là người phàm tu hành đắc chứng.

Chưa từng thấy ai lúc mới sinh ra đã là Tiên Phật Thần-Minh.

Mẹ mong mỏi con, chúng nhi nữ phải, sớm hiểu cái chân ( thật ) cái nguỵ ( giả ).

Đứa mê tỉnh ngộ, phỏng bái Chân-Sư để được phản bổn hoàn nguyên.

Huấn phê đến đây, tam tài mỏi mệt, Mẹ tạm đình chỉ Cơ Bút.

Con làm Tam-Tài ăn chút lót dạ, rồi Mẹ sẽ tiếp tục phê.




Hoàng Mẫu Huấn Tử Thập Giới

Giới cáo thứ 4



Giới cáo thứ tư dạy Nguyên-Phật-Tử hiểu rõ chân công tu luyện.









Nơi hồng trần này là nơi khổ hải, sóng gió mênh mông không ngừng.

Kiếp sống con người như con phù du, sáng sanh ra chiều chết đi.

Nào có mấy ai có thể thoát khỏi Địa Ngục Diêm-Vương Thập Điện.

Ngày đêm kiếm sống, khổ cực vất vả, nào là bôn ba Nam Bắc.

Ví như trâu ngựa chạy trên đồng hoang không biết đường lối nào về.

Đời người ngắn ngủi chỉ vài mươi năm mà phải chịu sanh lão bệnh tử.

Muôn ngàn cảnh vật cùng vạn sự việc như sương mai trên cành bông.

Tranh danh đoạt lợi, toan tính phú quý, sanh tử luân hồi không ngừng.

Cứ mãi tham luyến vợ đẹp con ngoan cũng chỉ một giấc chiêm bao.

Nói đến hồng trần, cuộc sống thê lương, khổ đau không thể tả nổi !

Còn có thất tình, cùng với lục dục làm cho mê hoặc các con.

Dù cho con đã gom góp tích trữ được một gia tài tỉ phú,

Đồn điền ngàn mẫu, thu hoạch vạn thạch, ngày cũng chỉ ăn vài thăng.

Dù cho con có xây cất được nhiều nhà cao tầng rộng lớn.

Nhưng cũng chẳng qua ngủ tám tấc rộng, khó nằm một lúc hai giường.

Dù cho con có vàng bạc dư thừa vun lên chất cao như núi.

Chết xuống âm phủ làm sao có thể mang được một đồng đi theo.

Dù cho con mặc lụa là gấm vóc, y phục vô cùng đẹp đẽ;

Cũng chẳng qua để che thân che lạnh, phòng gió chống sương mà thôi.

Dù cho con ăn cao lương mỹ vị, tiệc rượu sang trọng đủ dạng,

Vì muốn ngon miệng, sát hại sinh linh, tội nghiệt này khó gánh nổi.

Dù con ngày đêm ăn chơi hưởng lạc, tâm ý vô cùng sảng khoái,

Thời gian trăm năm như là giấc mộng, búng tay thoáng chốc trôi qua;

Dù cho con có thê thiếp tốt đẹp, con cái khôi ngô tuấn tú,

Đường xuống suối vàng, tứ xứ phân chia, cảnh ly biệt rất thê lương !




Than thở một tiếng, kiếp sống ngũ trược, nước mắt đau buồn tuôn chảy.

Mẹ mong mỏi con, các Hoàng-thai-tử, không nên lòng còn đắm mê.

Cuộc sống phàm trần, thật ví như là du ngoạn nơi sân khấu.

Người nào là ông, người nào là cháu, ai là mẹ ai là con,



Nếu như có thể mau sớm tỉnh ngộ, cả nhà tu tâm dưỡng tánh.

Cùng nhau hành công, cùng nhau lập đức, cùng được trở về Tiên-hương.

Tại nơi Hậu-Thiên, tu trì chân đạo, toàn gia mọi điều tốt lành.

Sau khi công thành, trở về Tiên-Thiên, cùng được đoàn tụ một nhà.

Kỳ duyên lần này thật là ảo diệu, hiện tượng xưa nay chưa có.

Chỉ là đáng thương thế nhân mê muội, chưa tỉnh giấc mộng hoàng-lương.

Người vì cái danh, đã tới nhất phẩm, lại còn muốn đến ngôi vua.

Kẻ vì món lợi, kiếm lời trăm vạn, lòng còn chưa được thoả mãn.

Chỉ biết tham muốn, chỉ biết luyến cầu, hoàn toàn không chịu suy nghĩ.

Nên quên mất đi con đường sanh tử, mà phải xuống gặp Diêm Vương.

Có thể tỉnh ngộ, sớm tu chân đạo để được trở về Tiên-Thiên.

Còn không tỉnh ngộ, tâm tánh u mê thì Địa Ngục thê lương đang chờ.

Trời và vực này, phân chia hai đường đều do một niệm quyết định.

Nếu như nhất thời mà tâm niệm sai là vĩnh viễn chịu bi thương.

Nỗi đau thống khổ ở nơi Địa Phủ khó dùng lời tả cho hết.

Tới Nghiệt-Kính-Đài chiếu ra một cái tất lộ hết mọi tội ương.

Như có làm thiện thì còn cơ may kiếp sau được hưởng phước báo,

Đến lúc phước hết, rốt cuộc cũng truỵ, làm sao có thể lâu dài !

Nếu tạo ác nghiệt, lại không chịu nhận, có miệng cũng khó chối cãi.

Chiếu ra tội nghiệt, chịu đủ hình phạt, là tự mình đi gánh lấy.

Có núi đao nhọn, có chảo dầu sôi, hình phạt có đủ mọi dạng.



Nào là cưa lớn, nào cối xay sắt, lại có chó uống canh máu.

Trên cầu Nại-Hà đã rơi rớt xuống bao đứa già trẻ, lớn, bé.

Khắp mười tám tầng địa ngục đại lao, nhìn vào cảm thấy thảm thương !

Mỗi khi nhắc đến những khổ đau này thật khó nói tiếp được nữa.

Không kiềm nổi lòng, nước mắt của Mẹ lại cứ rơi đầy trước ngực…

Một lần vấp ngã, hối hận muôn đời, sự thật là như thế đó !

Mất đi thân người, vĩnh viễn trôi dạt, là khó trở về Tiên-hương.

Nghe lời Mẹ khuyên, lo tu Thiên-Đạo, tinh thần phấn chấn vui tươi.

Lập nguyện xông thiên, ý chí kiên cường, tâm phải tựa như kim cang.

Cửu tổ của con trong vòng luân hồi, ngày đêm thiết tha mong đợi.

Đang trông chờ con, hành công lập đức, siêu thoát khổ hải mênh mông.

Một ý niệm sai, bị truỵ lạc xuống thì cũng không tính là bao,

Mà làm liên luỵ các bậc tổ tiên, thống khổ khóc than nơi suối vàng.

Nén dưới Âm-Sơn đến sáu vạn năm, khổ đau không thể nói được !

Đợi hạ-ngươn sau, gặp kỳ phổ độ, mới có cơ hội lên pháp thuyền.

Nếu như vận may đến lúc đó mà theo kịp kỳ duyên phổ độ,

Lại không biết chắc chuyển được thân người, cầu được Chân-Đạo hay không.

Nên không gì hơn, nhân thời kỳ này vãng hồi Tây-Thiên kịp lúc.

Các con hãy mau thức tỉnh cơn mê, theo Mẹ trở về Diêu-Trì.

Huấn phê đến đây, tĩnh toạ chốc lát rồi sẽ tiếp tục lên đàn.

Mẹ ngưng cơ bút, diệu ý trong huấn, con xem lại cho hiểu tận tường.



Chú Giải








Câu chuyện “Hoàng lương nhất mộng” ( giấc mộng kê vàng ) bắt nguồn từ truyện “ Chẩm trung ký” của Trầm Ký Tế đời Đường. Chuyện kể rằng, có một chàng thư sinh nghèo họ Lư. Một hôm, nhân chuyến đi chơi, anh vào nghỉ trong một quán trọ. Lúc chủ quán trọ bắc nấu một nồi kê vàng, thì chàng trai lên giường đi ngủ. Trong giấc ngủ, chàng trai mộng thấy mình lấy vợ và sinh con, sự nghiệp thuận buồm xuôi gió, tận hưởng vinh hoa phú quý, và cuộc sống sung sướng, thoải mái ấy kéo dài cho đến lúc già chết. Nhưng khi tỉnh dậy, kê vàng vẫn còn chưa chín. Sự gợi ý của câu chuyện này là: Đời người như giấc mộng, tất cả sang hèn, giàu nghèo, đều như mộng, như huyễn.




Hoàng Mẫu Huấn Tử Thập Giới

Giới Cáo thứ 5







Giới cáo thứ năm dạy Nguyên-Phật-Tử cần phải thật tu thật hành.




Hiểu rõ thời vận, biết được ý trời mới xứng gọi là người Hiền.

Nay đương vốn là thời kỳ mạt kiếp nên đạo và kiếp cùng giáng.

Thay đổi trời đất, chỉnh đốn núi sông, bát quái tứ tượng biến thiên.

Nói đến lòng Mẹ thì nguyên vốn là lấy nhân từ làm căn bản.

Nhưng tại vì sao lần đại kiếp này, Mẹ lại giáng xuống trần gian ?

Con không nghĩ xem từ xưa tới nay nào có thấy đại kiếp đâu.

Thời Nghiêu Thuấn Vũ an cư lạc nghiệp, vui sướng tự tại biết bao.

Lòng người chân chánh, lòng trời lại thuận thì nào phải có kiếp giáng;

Lòng người nguỵ tà mới cảm ác nghiệt, cho nên hạo kiếp hoành lưu.

Nhìn phàm trần nay, phong tục thói quen càng ngày lại càng tồi tệ.



Lễ giáo kỷ cương, Thánh-Hiền thời xưa ngày nay không người noi theo;

Học thói gian tham, lời nói xảo quyệt, nên chuyên lường gạt dối trá.

Bại hoại nhân luân, tam cang ngũ thường, một lời thật khó tả nổi !

Vua không ra vua, quan không ra quan, kỷ cương triều đình khó chỉnh;

Cha không ra cha, con không ra con, phong tục thế gian suy đồi.

Chồng thì bất nghĩa, vợ phận không tròn, đạo đức làm người bại hoại.

Anh không khoan cung, em không nhẫn nhịn, dẫn đến kết thành oán thù.

Giao thiệp bạn bè thì mất chữ “ Tín ”, lời nói không đúng với việc làm.

Ngũ luân rơi mất, bát đức phế bỏ, không một người nào tuân theo.

Kẻ sĩ-tử thì chỉ biết thuyết lý, không chiếu theo lý mà làm.

Người nông dân thì chỉ lo thu hoạch, chân lý chưa hề nghiên cứu.

Người công nhân thì không chịu bàn tới những điều tinh cần kiên phác.

Còn người thương gia lại bán hàng giả, lường gạt những người thật thà.

Đứa tu nhà Phật thì đánh mất đi cả tam quy lẫn ngũ giới;

Kẻ tu theo tiên thì bỏ chánh pháp, biến thành tả đạo bàng môn.

Còn người nho sĩ mới học sơ sài, tự xưng tự phụ là Thánh.

Nhìn thấy cảnh này, Mẹ không kiềm nổi, bi thương đau xót trong lòng.

Vào đương thời nay, nếu như lại là không có tai kiếp giáng xuống,

Thì trên thế gian hẳn sẽ không có một người đáng gọi là Hiền-Lương.

Giáng xuống tam tai, rãi ra bát nạn, nào là đao binh thuỷ hoả.

Chín lần chín kiếp, tám mươi mốt nạn, phổ biến trên khắp toàn cầu.



Mẹ lại ra lệnh cho Ngũ Đại Ma hạ giáng đại náo Đông Thổ.

Thiết lập vạn pháp, định liên hoàn trận, thu hết những kẻ ác nghiệt.

Số trời đã tới, số Đất đã mãn và khí số cũng đã đến.

Đây cũng là do con người tạo nghiệt dẫn tới kết thành oán thù.

Nghiệp sáu vạn năm, nay đại thanh toán là ứng tại nơi trần thế.

Phân ra ngọc đá, phân ra thiện ác, khắp nơi đều được cắm cờ.

Dùng huệ nhãn, nhìn cõi hồng trần, huyết lệ lại nhoè đôi mắt.

Thấy ác nghiệt như mây mù cuồn cuộn xông lên che lấp trời xanh.

Khắp cả bốn bể khuấy lên gió bão, không có nơi nào yên tĩnh.

Chiến tranh xảy ra, trộm cướp náo loạn, mười người hết chín sầu lo.

Dịch bệnh đói rét, hạn hán lũ lụt, kiếp nạn xảy ra liên miên.

Thiên hạ khắp nơi đều tuyệt ngũ cốc, cây cỏ cũng không thu được.

Chịu tai nạn này đến kiếp nạn kia, chưa phải điều lạ đáng nói.

Đáng sợ nhất là nạn thuỷ hoả phong tẩy xoá biến đổi toàn cầu.

Tối đen bảy bảy bốn mươi chín ngày không có mặt trăng mặt trời.

Địa phủ mở cửa phóng thả quỷ hồn cùng nhau đến để đòi mạng.

Tối đen như mực, làn khí âm u, rét buốt toả khắp thế gian.

Cùng đến đòi nợ, thiếu mạng trả mạng, thiếu nợ lấy công đức bù trừ.

Giáng xuống cương phong, quét tẩy càn khôn, cùng lúc quét tẩy vũ trụ.

Quét tẩy khí tượng, chải sạch Tam-giới, đổi mới Đại-Trung-Tâm.

Dù cho con là thân thể kim cang, luyện thành mình đồng da sắt.



Cũng khó thoát khỏi chân kiếp hoả của Mẹ, tánh mạng khó được bảo tồn.

Tuy rằng hạo kiếp ở nơi Đông Thổ đều là do Mẹ giáng xuống,

Nhưng tại Tiên-Thiên ngày đêm khóc than, huyết lệ cứ mãi tuôn rơi.

Không nỡ nhẫn tâm nhìn ngọc và đá thiêu huỷ không được phân ra.










Buông xuống kim tuyến, hiện ra linh-quang, lái pháp thuyền trong khổ hải.

Trong ngàn con đường, lẫn vạn con đường, không có con đường nào sống.

Duy có sinh lộ, Thiên-Đạo-Nhất-Quán, các con phải mau tới cầu.








Mẹ vì tưởng nhớ đến chúng nhi nữ mà phải bôn ba tứ phía.

Soạn thảo ngàn thư, buông xuống vạn lời, nhiều lần gửi tới trần gian.

Chỉ lo sợ là hạo kiếp xảy đến tổn thường Hoàng-Thai nhi nữ.

Vì thế Mẹ mới hết lòng khổ công, lần nữa viết sách phê thư.

Kêu lên một tiếng, con cưng của Mẹ, trai hiếu thảo, gái Hiền Lương.

Mau mau cất bước, gấp rút lên bờ, mà cần thêm công tu tiến.

Đã đắc Thiên-Đạo không thể tái diễn lúc ba lòng lúc hai ý.

Lấy gươm trí tuệ mau chặt vứt đi những vòng danh lợi ràng buộc.

Khổ luyến phàm trần, nào hay biết được thế giới này là giả tạm.

Hãy dùng huệ nhãn nhìn thế gian này, cái đáng sầu lại không sầu.

Cho dù con có cả ngàn phương pháp, vạn loại diệu kế chăng nữa,

Nhưng đến lúc đó cũng không làm chủ, thân chịu kiếp nạn lưu đày.

Vì trong mười phần thì chết đi bảy, còn lại ba phần chịu khổ.

Chỉ thấy thảm trạng máu chảy thành sông, còn xương chất cao như núi.



Nếu như tiếp tục tham luyến phàm tình, trái đạo lý quên cội nguồn,

Gặp chín chín kiếp, đanh tan nguyên linh, nhốt vào địa ngục lao tù.

Muốn thoát kiếp nạn, muốn tránh tai ương, phải mau dựng lập công quả.

Mẹ lệnh Tiên Phật hộ trì cho con được bình an sống qua ngày.

Con nào tỉnh ngộ thì đi theo Mẹ mà trở về Vô-Cực;

Còn không tỉnh ngộ sẽ gặp hạo kiếp mà bị đánh vào ngục lao.

Các Nguyên-Phật-Tử hãy cùng tiễn giá, Mẹ dẫn đứa hầu trở về.

Đến một nơi kia sẽ tiếp tục phê lời vàng lưu lại thế gian.




Hoàng Mẫu Huấn Tử Thập Giới

Giới cáo thứ 6 







Giới cáo thứ sáu dạy Nguyên-Phật-Tử chuông vàng gõ nhanh thôi thúc



Vô sanh Lão-Mẫu tưởng nhớ đến con, lòng bồn chồn như lửa đốt.

Lo âu các con tâm tánh mê mờ mà không chịu nghe lời Mẹ.

Đem thư của Mẹ vất qua một bên, chẳng cần xem, chẳng thèm nhìn.

Đứa như khúc gỗ, đứa thì ngang ngạnh, thật khó khuyên răn cảm hoá.

Phí hết tâm trí, dùng hết sức lực, nhiều lần giáng qua Cửu-Tiêu.

Vì lo liệu việc Tam Kỳ phổ độ, lần chót vô cùng khó khăn.






Mới sai ngàn phật, lệnh cho vạn Tổ cùng giáng xuống cõi Đông Thổ.

Dùng ngàn phương pháp, lẫn vạn kế sách nhưng không thấy có hiệu quả.

Và đã nhiều lần sao gởi huyết thư, cũng là lao tâm uổng phí.

Làm khổ lòng Mẹ, Vô-Sanh Lão-Mẫu bi ai lớn tiếng khóc than.

Mỗi nghĩ đến con, mỗi nhớ đến con, nước mắt tuôn trào như mưa.

Lòng quá nôn nóng muốn cho ngưng độ, không độ hoá thế gian nữa.

Nhưng không bỏ được, nguyên-lai Phật Tử, hai hàng lệ lại tuôn rơi.

Vì thế Mẹ mới nay lại tiếp tục phê xuống huyết thư “ Thập-giới ”.

Để khuyên dạy con, các Nguyên-Phật-Tử mau tỉnh ngộ thoát trần lao.

Luận trên thế gian có trăm thứ thiện là chữ hiếu phải đi đầu.

Kẻ đã bất hiếu thì còn xưng chi là tu đạo, là anh hào.

Mẹ hy vọng con nhất định không được bất hiếu trước mặt Mẹ nữa.

Lời của Mẹ dặn, y theo mà hành tức sẽ đạt bậc Hiền Sĩ.

Nếu là hiếu tử thì nào cần Mẹ ba lần bốn lượt khuyên dạy.

Thể theo ý Mẹ, hết lòng thành tâm, thay Mẹ lo việc thu viên.

Từ nay trở đi phải lập mục tiêu mau mau tu đạo bàn đạo.

Nhớ tới Từ Mẫu cũng phải nhớ tới đồng bào thân thiết của con.

Trong khắp bốn bể đều là anh em, cần mau ra tay cứu vớt.

Trước là chánh kỷ, sau thành toàn người, cùng nhau độ hoá hồng trần.

Mình muốn lập thân, cũng muốn người lập, là căn bản của Thiên-Đạo.

Mình muốn đạt thành, cũng muốn người đạt thì mới hoá tỉnh người mê.



Người giác ngộ trước độ người giác sau cùng lên Bồ Đề giác lộ.

Là một Tiền Nhân phải có tinh thần quan tâm đế bạt hậu học.

Con nào dắt người nhất định phải dắt đi lên con đường giác ngộ.

Con nào cứu người phải cứu đến cùng mới đáng gọi là hào kiệt.

Độ được một người, thành toàn một người mới là hợp ý của Mẹ.

Đừng có bao giờ độ được lên bờ rồi không bận tâm gì tới

Vào đương thời nay thiên thời khẩn cấp, càng lúc càng khẩn cấp hơn.

Mau mau lập công, mau mau bồi đức, giúp cho Đại-Đạo xiển khai.

Gấp rút tiến bước thì trồng được nhanh mới có thể kết trái lớn.

Còn như chậm bước thì trồng trễ mùa, chỉ ra hoa như bóng ảo.

Tu trì Thiên-Đạo càng không nói đến là bần cùng hay phú quý.

Bất luận là nam, bất luận là nữ đều phải cần cù gian lao.

Nghèo góp sức lực, giàu góp tiền của, đều có thể bàn việc đạo.

Tài pháp song thí, phúc huệ tròn đầy, thanh phúc hồng phúc đều có.

Cấp tốc xiển khai, cấp tốc xiển hoá, nhất thiết không được trì trệ.

Hễ còn chậm trễ, hễ còn do dự là khó kiến lập công lao.

Người nào biết văn thì dùng lời văn có thể thay trời hành đạo.

Người nào biết võ thì bôn ba sức lực, có thể bôn ba trần lao.

Hỗ trợ nhân lực, trợ giúp tài lực là thấy đạo sẽ thành đạo.

Hoàng-Thiên ban ân vốn rất vô tư, đức độ quảng đại bao la.

Những con bàn đạo không có lòng thành là không tác dụng gì hết.



Và con lãnh tụ đâu phải chỉ có chiêu thức bên ngoài hay ho,

Mà chính là nhờ chân tâm thật luyện, cùng với hồng thệ đại nguyện.

Cậy Phật để ăn, nhờ Phật để mặc là khó trốn khỏi thiên lôi.

Đều vốn là vì cứu nhân độ thế nên bôn ba ngược xuôi.

Chư Phật Thánh Tiên cũng còn phải chịu tận mọi gian lao khổ cực.

Đều phụng mệnh Mẹ giáng xuống phàm trần, phổ hoá Chín sáu nguyên linh.

Chân Thiên-Đạo này có chơn ấn chứng, không phải nói việc giả dối.

Nếu như lại là Thiên-Đạo của Mẹ có điều hư có điều giả dối,

Lời nguyền của con do Mẹ gánh chịu, chẳng lẽ lại gạt con sao ?

Mẹ nào muốn nói những lời như thế để con phải thêm tội !...Ai!...

Con còn mê muội, tuy nghe như thế, nghi ngờ huỷ báng không dứt.

Vào đương thời nay lập công định quả, dựng vạn tám năm Thánh nghiệp.

Trên hưởng thanh phúc, dưới hưởng hồng phúc, khoái lạc tự tại tiêu diêu.

Cổ vũ tinh thần, hăng hái can đảm, một mực không ngừng tiến tới.

Dù cho mất mạng cũng phải tu đạo, chí lớn kiên quyết không đổi.

Hoặc lập Phật đường cứu độ chúng sinh, đó là đệ nhất đại thiện.

Hoặc đi khai hoang, hoặc đi hạ chủng đó là một đại công lao.

Nếu như các con tuân lời Mẹ huấn, chịu đi khai hoang hạ chủng.

Mẹ sẽ lệnh cho Tiên Phật trợ lực giúp con công thành đạo cao.

Hiện nay Thiên-Đạo đang trong giai đoạn vừa nửa sáng vừa nửa tối.

Chính lúc tốt nhất để lập kỳ công mà hiển anh hùng hào kiệt.



Tuỳ theo thời thế, tuỳ theo cơ duyên cẩn thận hành sự thì tốt.

Chân Thiên-Đạo này hiện đang ám tuyển để chọn những người hiền lương.

Đương hiện thời nay Bề Trên mở khoa thi cử nào ai hay biết.

Thành được Thánh Hiền, thành được Tiên Chân đều tại nơi mình cần lao.

Ba ngàn sáu Thánh, bốn vạn tám Hiền, quả vị này đều có phần.

Con nào đi trễ, con nào chạy chậm là tự oán trách than khóc.

Nếu hiểu rõ được thiên cơ thời vận là sẽ theo Mẹ trở về.

Không thức thời vận, tâm còn si mê thì đại kiếp sẽ khó tránh.

Mong chư Phật-Tử biết thì phải hành, có thể mau mau tuyên hoá.



Nghỉ ngơi chốc lát cho tâm thanh tĩnh, Mẹ sẽ tiếp tục tái phê.




Hoàng Mẫu Huấn Tử Thập Giới

Giới cáo thứ 7






Giới cáo thứ bảy dạy Nguyên-Phật-Tử, nước mắt lại rơi thấm áo.

Mẹ vì nhớ thương các Hoàng-thai-Tử mê đắm hồng trần đã lâu.

Nên tại Tiên-Thiên, Mẹ ngày lẫn đêm, đau khổ bi ai thương khóc.

Tưởng nhớ đến con, khóc đứt ruột gan, làm sầu nát cả tim Mẹ.

Con không tỉnh ngộ thì đối với Mẹ nào có trở ngại gì đâu !

Chỉ lo sợ cho con cưng của Mẹ gặp phải hạo kiếp khó tránh.

Hãy nghe Mẹ khuyên, mau mau tỉnh ngộ, sớm lo tu thân lập mạng.



Hiểu được ý Mẹ, nhớ được ơn Thầy, mới xứng là bậc hiền tài.

Thụ nơi Minh Sư, nhất điểm huyền quan, thân chết cũng khó báo đáp.

Ơn nặng như núi, sâu tựa biển cả, phải luôn khắc ghi trong lòng.

Nếu như không thụ Minh Sư chỉ điểm, sao có thể thoát khỏi khổ hải.

Lại sao có thể liễu đi sanh tử, không còn phải chịu hạo tai.

Trên siêu tổ tiên, dưới phúc con cháu, toàn nhờ đức hạnh của Thầy.

Các con cần phải báo đáp đại ân, nên tuân theo thầy an bài.

Nếu như là con, tu đạo bàn đạo, lại trái ngược mệnh của Thầy,

Bị trời khiển phạt, phải chịu ngũ lôi, làm cho cửu tổ bi ai.

Tuân mệnh của Thầy, quý trọng Thiên-Đạo, mới xứng đáng là Hiền-Sĩ.

Học sự ôn lương, với cung kiệm nhường, luôn luôn hoà ngôn duyệt sắc.

Làm tròn nhân đạo là hợp Thiên-Đạo, hết lòng trong bổn phận mình.

Hành giữ lễ nghĩa, tam-cang ngũ thường, trung chánh trang tề có đủ.

Làm trai thì phải tuân đạo ngũ luân, thường giữ vững được bát-đức.

Phận gái thì nên tuân đạo tam tòng, tứ đức luôn được trao dồi.

Học lòng trung tín, hành việc nhơn nghĩa, mau dựng lập đại công đức.

Đối với Đạo-Thân xem như anh em, đều là Hoàng-Thai của Mẹ.

Không thể tiếp tục khen người này hiền, lại chê bai người kia ngu.

Càn đạo, khôn đạo dù giàu hay nghèo, không được phân biệt trắng đen.

Là lãnh tụ phải có lòng lượng thứ, có thể bao núi chứa biển.

Thường thường chỉ đạo, dìu dắt hậu học, cùng nhau mở rộng đạo pháp.



Chí nam nhi phải biết co biết duỗi, có thể nhẫn, có thể nại.

Vượt núi băng sông, chịu sương chịu gió, lòng không bao giờ oán trách.

Nghe công thì sợ, nghe lỗi thì mừng, điều gì sai thì biết sửa.

Nếu được như vậy mới xứng đáng là hiền tài đỉnh thiên lập địa.

Là hậu học phải tôn kính Tiền Nhân, một lòng đồng tâm hoà khí.

Là Tiền-Nhân phải đề bạt hậu học, lòng dạ khoan dung độ lượng.

Vào đương thời nay, thiên thời khẩn cấp, các con cần nỗ lực hơn.

Đừng phụ những lời vàng ngọc của Mẹ, nhiều lần khuyên dạy Hoàng-Thai.

Người không phải Thánh, ai không có lỗi, nếu có lỗi tất phải sửa.

Người biết được lỗi mà không chịu sửa là khó trở về Diêu Trì.

Trước tiên hành công, sau đó phạm lỗi thì công trước không được tính.

Trước thì có lỗi, sau thì có công, công và lỗi được tiêu trừ.

Nếu như là biết sửa lỗi lầm trước, rồi sau đó mới lập công.

Lẽ đương nhiên là có công ghi công, không phụ lòng người hiền-tài.

Người có công nhiều, mà lỗi lầm ít, được nghi tên lên Thiên-Bàn.

Tội lỗi quá nặng, mà công đức nhỏ, bị đánh lạc vào hạo tai.

Sổ sách Tiên-Thiên được tính như vậy đều có ghi chép rõ ràng.

Chưa đi hành công, mà sửa lỗi trước mới là người gánh trọng trách.

Từ cổ chí kim, tu trì Thiên-Đạo vốn chẳng phải dễ dàng.

Vào thời buổi nay, so với cổ xưa, riêng có an bài sắp xếp.

Mẹ khoan đại-ân, ban bố đại đức, cứu vớt thiện nam tín nữ.



Cho nên Phật quy đã được rộng rãi, ma khảo cũng giảm ít đi.

Như vào hiện nay, người tu Thiên-Đạo thật sự dễ dãi hơn nhiều.

Không phải chịu đựng những khó khăn lớn, lại không gặp nhiều tai hoạ.

Tuy là phải chịu cực khổ gian lao, bôn ba chỗ này chỗ nọ.

Độ trở về được các Nguyên-Phật-tử, Mẹ sẽ ban thưởng toà sen.

Tuy là phải chịu sương gió dày vò, cái khổ dầm mưa dãi nắng.

Chịu một phần khổ là một phần công, vinh quang này tôn quý nhất;

Tuy là phải chịu những lời huỷ báng, bị người chế nhạo, ganh ghét.

Nhưng đến lúc đó, người trí ngu hiền, tự nhiên sẽ được phân ra.

Tuy là phải chịu oan khuất, hiểu lầm, mà cố nuốt cay ngậm đắng.

Bề trên cân nhắc, không phụ công lao, nhất định ghi chép rõ ràng.

Tuy là không màng tranh cường hơn thua, lại cũng không có háo thắng.

Chỉ tồn cái tâm và dưỡng cái tánh là Bồ Đề được nở hoa.

Tuy là phải chịu đủ thứ ma khảo, nào thuận khảo, nào nghịch khảo,

Không trải ma khảo thì không thành Phật, lý này là không thay đổi.

Tuy là trông thấy kẻ ác thì mạnh, còn người hiền thì nhu nhược.

Nay đương vốn là thời kỳ báo ứng, sẽ quét sạch kẻ ác nghiệt.

Từ xưa đến nay, tu trì Đại-Đạo là nhất định có ma khảo.

Càng tu công đức, càng bị phỉ báng, đạo một thước, ma một trượng.

Cũng chẳng phải là hắn muốn huỷ báng, mà vì oan nghiệt quá nặng.

Không có căn cơ làm sao có thể gánh lấy toà sen ngàn lá.



Kẻ nào bạc phước, căn cơ không hậu, tâm tính khó mà an định.

Tuy là đắc đạo, nhưng tâm thối chí nên khó trở về Bồng-Lai.

Con chớ nói rằng những người tu đạo là điên khùng là ngu dại.

Người thực sự hành, lập nên kỳ công, tiếng tăm vẻ vang trần ai.

Con không nghĩ lại Tam-giáo Thánh-nhân lúc mới khai hoá lập giáo.

Chịu hết mọi khổ, mới hưởng thanh hồng, vĩnh cửu không bao giờ phai.

Cho đến hôm nay đã ba ngàn năm, Trời người tôn kính chiêm ngưỡng.

Thành đạo về trời, danh lưu hậu thế, vinh quang có chi sánh bằng.

Vào thời kì đó, tại nơi Đạo-Bàn thì vốn còn là tra bổ,

Huống hồ chi nay là thời Tam-Kỳ, Tam-Tào đại khai phổ độ,

Ba ngàn sáu vị được liệt quả Thánh, lập chùa Bạch-Dương uy nghiêm.

Bốn vạn tám vị được chứng quả Hiền, thanh hồng phước cùng được hưởng.

Người tiến người hành, là chứng Thánh Hiền, quý nơi chân tâm thực tiễn.

Rạng rỡ Tổ Tông, phước báo con cháu, thiện đức mãi được vun bồi.

Có thể phụng hành thì đăng thượng phẩm, bằng không sẽ bị truỵ lạc.



Tam-tài tạm nghỉ, tĩnh toạ chốc lát, đợi Mẹ lại tiếp tục phê.




Hoàng Mẫu Huấn Tử Thập Giới

Giới cáo thứ 8







Giới cáo thứ tám dạy Nguyên-Phật-Tử, lòng buồn tê tái xót xa.

Đưa mắt nhìn xuống, thấy chúng nhi nữ không tỉnh ngộ cõi hồng trần.

Nhận cái sướng giả, chịu cái khổ thật, ngày đêm lao nhọc vất vả.

Đối với Thiên-Đạo chỉ làm ứng phó, chẳng có chút gì thiết tha.

Biết bao nhiêu đứa vì tham phàm tình mà bỏ Lý lại quên Thánh.

Biết bao nhiêu đứa do sợ ma khảo mà tâm chí không định không kiên.

Tu Chân-Đạo này tất có chân khảo, là lý cổ xưa đến nay.

Khảo là để luyện ra chí kim-cang, như ngọc không dấu tì vết.

Ngọc không đẽo gọt, không thành trang sức, lời nói này không phải giả.

Là vàng thật phải trải qua trăm luyện mới được toả sáng rực rỡ.

Cây nào được chọn làm cây cột trụ phải chặt bỏ hết nhành cây.

Xây dựng công trình, cất nhà cao tầng, nền móng phải cho vững chắc.

Đem người và vật ra để so sánh thì lý một dạng như nhau.

Phải chịu đả kích, phải chịu mài dũa, trí tuệ mới phát huy tốt.

Khi nhà nghèo khổ mới biết rõ được đứa con thật lòng hiếu thảo.

Lúc quốc gia loạn mới xuất hiện ra công thần ái quốc trung lương.

Trải qua cuồng phong, lộ cỏ cứng cáp, lời này quả nhiên không sai.

Không có khảo trừng, không thấy cái thật, làm cho chân nguỵ lẫn lộn.



Nếu nói đến khảo, những con tu hành cũng chẳng phải có một đứa.

Đưa tay ra đếm khó mà tính hết, chỉ thuật sơ qua vài tên.

Nhớ lại khi xưa, một Khương-Thái-Công còn phải đi bán bột mì.

Chịu đựng ma khảo để luyện tâm tánh, chịu nhiều điều không tốt đẹp.

Và Châu Văn Vương tại nơi Dữu Ly, bị giặc vây khốn bảy năm.

Hắn nào không biết là do định số cho nên không hờn không oán.

Còn có đứa tên là Khổng Trọng Ni cũng phải chịu nhiều đại nạn.

Qua nước Tống-Vệ, gặp nhiều tai ách, phải xoá hết đi tông tích.

Tại đất Trần-Thái cạn hết lương thực mà nhịn đói đúng bảy ngày.

Người phàm xem Thánh, như bị điên khùng, khó nói chuyện cùng trao đổi.

Như Khưu-Trường-Xuân, lúc tu đạo thời, khốn khổ không biết là bao.

Hay Diệu Thiên Nữ vì muốn tu đạo mà phải chịu trảm, chịu giảo.

Và Tôn-Bất-Nhị dùng chảo dầu sôi mà huỷ hoại đi dung nhan.

Lấy cảnh khảo đảo của thời hiện tại đem so với thời cổ xưa,

Những cái ma khảo nhẹ hơn trăm lần, tự tại không gì ràng buộc.

Qua cơn khảo nghiệm mới biết rõ được ai là đại căn đại khí.

Trải qua ma luyện thì Chân-Phật-Tánh mới thật sự toả hào quang.

Khảo nghiệm ma luyện, đây là bậc thang để đi đến Tiên Phật Thánh.

Nếu hiểu thấu được cảnh đời giả tạo sẽ đạt tới cõi cực lạc.

Mẹ đã sắp đặt, định ra diệu kế, thật là huyền diệu vô kể.

Đem những phong ba che chắn ngoài cửa, ngoài ảm đạm, trong minh bạch.



Sự tu Thiên-Đạo nếu như lại là không có ma khảo đoạn luyện.

Thì đứa tửu sắc, đứa ăn chơi nơi lầu xanh đều lên cõi tiên.

Không có khảo nghiệm làm sao phân ra cái ngu hiền, cái chân giả.

Và cũng nào có ai chịu nhường trước cho ai lên ngồi toà sen.

Chớ lại nói rằng chỉ đắc thiên-tước thì mới có khảo có nghiệm.

Muốn đắc nhân-tước cũng phải mười năm khổ sở mới được hiển vinh.

Các con không hiểu, nhiều đứa thối chí đã làm khổ cho lòng Mẹ.

Mẹ không kiềm nổi, bi thương than khóc, huyết lệ nhỏ xuống sa bàn.

Vì quá nhớ con nên đã nhiều lần soạn thư cùng gởi tín đến.

Nhưng soạn một lần, rồi lại một lần mà không ai hiểu căn nguyên.

Nào dặn dò đi rồi dặn dò lại, vì sao vẫn không thức tỉnh !

Nếu như chế bai lời huấn của Mẹ là bị đè dưới Âm Sơn.

Kêu gọi một tiếng, các con của Mẹ mau sớm giác ngộ tâm tánh.

Cho dù ngàn ma, cùng với vạn khảo, tâm vẫn không chút vết tì.

Giữ trọn đạo-tâm trước sau như một, luôn luôn bền lòng vững chí.

Tồn lòng chí thành, ma khảo tự dứt, không có tạp niệm quấy nhiễu.

Từ thời cổ xưa, người tu Đại-Đạo là phải băng sông vượt núi;

Bỏ hết gia sản, xa lìa vợ con, đi khắp chân trời góc biển;

Phải lội vạn sông, cùng vượt ngàn núi vẫn khó ngộ được Chân-Tông;

Dù mang giầy sắt cho tới mòn lủng cũng khó gặp được Chân-Pháp

Chịu ngàn sóng gió, cùng vạn ma khảo, khổ cực không sao nói hết.



Tâm phải chí thành mới cảm động được các vị Thánh Phật Thần Tiên.

Sau khi thử nghiệm thấy quả nhiên là chân chân-thật, không phải giả.

Mới được truyền pháp, quay về động cổ mà để tu luyện Hoàng-Nha

Trải ba ngàn công, cùng tám trăm quả thì mới đắc thành chánh quả.

Nhưng cũng chẳng qua là về Khí-Thiên mà cho tạm hưởng vinh hoa.

Vào hiện thời nay con tu Thiên-Đạo thật là dễ dàng biết mấy !

Trước được thụ điểm, sau đó tu hành, lập kỷ hoá độ hồng trần.

Điều này vốn là ứng thời cơ hiện, không phải thời không tiết lộ.

Mẹ khai đại ân, thời nay tu hành, nửa lo Thánh, nửa lo Phàm.

Hiện nay đương lúc Thiên thời khẩn cấp, cần phải trọng Thánh khinh phàm.

Siêng năng cần mẫn, thực tế đi làm, không thể tiếp tục làm biếng.

Mẹ viết một thiên huyết thư ngữ này hy vọng con sớm tỉnh ngộ.

Đây không phải là lời văn khuyến thế, rãnh rỗi bàn chơi cho vui.

Vì các con nên đem hết tâm huyết, lòng Mẹ giờ như nát loạn.

Chư-Phật-tử hãy khắc ghi trong lòng, cần phải rộng xiển Phật Pháp.

Huấn phê đến đây Mẹ ngừng cơ bút, Tam-Tài tĩnh toạ chốc lát.

Đợi một lúc sau, Mẹ lại lên đàn, tiếp tục hoạ bàn sa cho.



Phụ Chú





Khương Tử Nha là vị quân sư tài ba có công lớn giúp Chu Văn Vương diệt nhà Thương, dựng lập nhà Chu. Nhưng ít ai biết được trước khi gặp Chu Văn Vương, Khương Tử Nha từng sống nghèo khổ, bị vợ bỏ… và phải mưu sinh cùng cực đến thế nào.

Trước khi Khương Tử Nha gặp Chu Văn Vương, ông từng chán nản buồn bã đến cực điểm. Gia thế của Khương Tử Nha vô cùng hiển vinh, tiếng tăm lẫy lừng, nhưng tới đời ông thì gia đình lại khánh kiệt, nghèo nàn, khiến người đời xem như ông có xuất thân thấp kém.

Tổ tiên của ông làm đến chức Tứ Nhạc, có công giúp vua Hạ Vũ trị thủy. Sử ký xác định tổ tiên của ông được phong ở đất Lã vào khoảng thời vua Thuấn đến thời nhà Hạ, do đó lấy Lã làm họ. Nhưng khi Khương Tử Nha ra đời, gia cảnh nhà ông đã ở vào lúc suy tàn. Trong “Thuyết uyển · Tôn hiền” của Lưu Hướng thời Hán có ghi lại rằng: Thời trẻ, Khương Tử Nha từng bán thịt, bán rượu, bán bột mì kiếm sống.

Khương Tử Nha từng đi ở rể gia đình nhà vợ, nhưng bởi vì ông không giỏi mưu sinh, làm việc gì kiếm sống cũng không được lâu dài nên sau này bị gia đình nhà vợ đuổi ra khỏi nhà. Trong “Chiến quốc sách” – Chương Tần ngũ có ghi chép vể điều này.

Trong sử sách cũng ghi chép rằng, Khương Tử Nha từng đi bán bột mì kiếm sống. Ông mua 30kg bột mì đem đến trấn Khẩu Tử bán. Ông cất tiếng rao hàng từ sáng sớm đến tận lúc mặt trời xuống núi mà không có một người nào hỏi mua. Khương Tử Nha thất vọng ngửa mặt lên trời thở dài một tiếng: “Trời ơi!” Không ngờ, khi ông vừa ngửa mặt lên há miệng ra than trời thì bị phân chim rơi vào miệng.

Ông vội vàng tới bờ sông tìm nước rửa miệng thì bỗng nhiên một trận cuồng phong nổi lên, lật tung chiếc sọt đựng bột của ông. Tất cả 30 kg bột mì bị gió thổi bay biến không còn lại chút nào…Đây thực sự là đẩy người ta đến tình cảnh cùng cực, “kêu trời, chim thải phân, kêu đất, đất cuộn tung quầy hàng”!

Bởi vì gia cảnh bần cùng nghèo khó, nên vợ ông là Mã Thị sinh lòng ghét bỏ ông, muốn đuổi ông ra khỏi nhà. Khương Tử Nha khuyên vợ rằng: “Ta chắc chắn sẽ có ngày được hưởng vinh hoa phú quý, nàng đừng làm như vậy!” Mã Thị không nghe lời khuyên của chồng mà rời bỏ ông.

Về sau, Khương Tử Nha trợ giúp Chu Văn Vương dựng lập nhà Chu, Mã Thị thấy ông có địa vị cao sang, tài phú của cải nhiều nên liền mong muốn cùng Khương Tử Nha “gương vỡ lại lành”.

Nhưng Khương Tử Nha sớm đã nhìn thấu lòng dạ người vợ cũ của mình. Ông đổ một hũ nước lên mặt đất và bảo người vợ cũ của mình hốt lên, Mã Thị chỉ có thể bốc lên được một nắm bùn. Lúc này Khương Tử Nha mới nói: “Nhược ngôn ly canh hợp, phúc thủy dĩ nan thu” (Ý nói rằng, đã chia xa thì khó hợp, giống như bát nước đã đổ đi thì khó hốt lại). Đây cũng chính là nguồn gốc của điển tích “nước đổ khó hốt”.

Dù cuộc sống cùng cực như vậy nhưng Khương Tử Nha là “người cùng, chí không cùng”. Cho dù là buôn bán làm ăn kiếm sống, xem bói tạm kiếm cơm qua ngày cũng vậy, ông đều siêng năng chịu khó một lòng học tập về thiên văn địa lý, quân sư mưu lược, nghiên cứu con đường “trị quốc an bang”. Ông từng ở trên núi Côn Luân học đạo, sau này ông xuống núi trợ giúp Chu Văn Vương diệt nhà Thương, sau khi diệt nhà Thương xong ông lại được phong thần.

Tương truyền rằng, sau nhiều năm ngồi câu cá chờ thời cơ bên bờ sông Vị Thủy, đến năm 72 tuổi Khương Tử Nha mới gặp được Tây Bá Hầu Cơ Xương, tức Chu Văn Vương sau này. Cơ Xương cho rằng Khương Thái Công là bậc kỳ tài nên lập tức mời ông lên xe theo mình, đồng thời cũng bái ông làm thầy. Khương Tử Nha bấy giờ mới bắt đầu con đường “dựng Chu diệt Thương” của mình.




Hoàng Mẫu Huấn Tử Thập Giới

Giới cáo thứ 9







Giới cáo thứ chín dạy Nguyên-Phật-Tử, huyết lệ lại rơi giọt xuống.

Chỉ vì Mẹ lo cho các con mà tim gan như rớt như treo.

Luận về đường Đạo có ngàn con đường, nhưng đều không phải là chánh.

Nếu như không lên được đường kim-tuyến thì khó trở về Vô Cực.

Vào thời hiện nay, bàng-môn hưng thịnh, vạn giáo đều cùng khởi phát.

Mẹ lo sợ cho các Hoàng-Thai-Tử lỡ đi vào con đường tà.

Hàng ngàn bàng-môn, cùng vạn giáo phái toàn là do Mẹ giáng xuống.

Trước tiên truyền sách, sau đó gửi thư, báo trước cho biết Tam-Kỳ.

Thời cơ chưa đến, nên Mẹ không giáng Tiên-Thiên-Đại-Đạo-Nhất-Quán.

Nhưng lại chỉ thấy các con của Mẹ tâm tánh mê mờ quá lâu.

Cho nên Mẹ mới giáng ngàn bàng-môn, tuỳ căn triều sơn bái đỉnh.

Khoá cái tâm-vượn, buộc cái ý-mã, chuyên tâm hành thiện tích đức.

Đợi cho đến lúc Chân-Thiên-Đạo giáng thì mới phổ độ thâu viên.

Và cùng nhau đến cầu Chân Minh-Sư để cùng trở về cố Tây.

Không phải thời nay, Mẹ không tiết lộ tận hết thiên-cơ huyền ngữ.

Vì nay vốn là thời kỳ thâu viên, vạn giáo được quy về Nhất.

Mẹ mới giáng đạo, hoá độ Tam-Thiên với danh xưng là “ Nhất Quán ”

Độ hoá Tam-Tào, vãn cứu bốn bể, cùng cất bước lên thang mây.

Những lời Mẹ nói câu câu chân thật, không có một chút giả dối.

Còn có bằng cớ và có chứng nghiệm, có thể khảo sát thật hư.

Lý của Tam-giáo cùng quy về Nhất, vậy thì Nhất quy về đâu ?

Từ Nhất bổn tán ra vạn hình thù, nhưng Nhất khởi đầu từ đâu ?

Muốn tu đắc đạo cần phải hiểu rõ nguồn gốc của con đường đến.

Không biết rõ được con đường nào đến, làm sao biết con đường về.

Thời kỳ thu viên, truyền cho pháp-bửu, là bí mật của Thượng-Thừa.

Từ vạn cổ xưa, chuyện kỳ lạ hiếm, nay xuất hiện ở Tam-Kỳ.

Nếu con không tin, Mẹ còn một lý để có thể chứng minh tiếp.

Đem Đại-Cương-Lãnh của Tam giáo ra mà cùng giảng nghĩa thuyết minh.

Cái Chân-Nhất này thì nguyên vốn là cái lý ở nơi Tiên-Thiên.

Nho gọi “ quán Nhất ”, Thích gọi “ quy Nhất ”, Lão giáo gọi là “ thủ Nhất ”

Minh tâm kiến tánh, và Quán tự-tại là sở giảng của nhà Phật.

Tồn tâm dưỡng tánh, cùng khắc phục công là cơ bản của Nho gia.

Tu tâm luyện tánh là để phục mệnh, là sở luyện của Đạo-Giáo.

Cái Tâm Tánh này thì nguyên vốn là nguồn gốc chí hư chí linh.

Đạo giáo tu trì tâm thường thanh tịnh, cho nên Tam-phẩm nhất lý.

Nho sĩ tu luyện, tâm biết định tĩnh, thì Thiên-Lý vẫn không mê.

Phật giáo thường nói tâm không và tĩnh, cả hai chỉ là một thể.

Đều vốn là do công phu tĩnh tu cho Tánh hợp với Vô-Cực.

Giảng về tam-quy, cùng giữ ngũ-giới là sở tu của nhà Phật.

Đỉnh tụ tam-hoa, triều nguyên ngũ-khí, là căn cơ của Tiên gia;

Hành theo Tam-cương, luôn giữ ngũ-thường là lễ giáo của Nho Sĩ.

Vào đương thời nay, truyền Nhất-Quán-Đạo là Tam-Giáo cùng hợp nhất :

Một không sát sanh, hiện Chơn Nhơn-ái, để cho Mộc khí phản bổn.

Hai không trộm cướp, giữ lòng trung Nghĩa để cho Kim khí ngưng tập.

Ba không tà dâm, thường giữ Lễ-tiết, để cho chân Hoả luyện tánh.

Bốn không uống rượu, để có trí tuệ, thì chân Thuỷ sẽ hoà hợp.

Năm không nói dối, giữ được chữ Tín, thì Thổ khí mới quy bổn.

Nên Ngũ-giới thanh, Ngũ-Thường đầy đủ, và Ngũ-Khí được triều nguyên.

Luận về Tam-Giáo, bản nguyên của nó, vốn là không có hai lý.

Nếu như có hai thì không phải chánh, tất thành ngoại đạo bàng-môn.



Từ vua Phục-Hy vẽ ra bát quái, chân-dịch bắt đầu xuất hiện.

Đây vốn chính là nền tảng cơ bản của Thiên Đạo được hạ giáng.

Thời Thanh Dương Kỳ, Mẹ mệnh Nhiên-Đăng đảo trang hạ phàm cứu thế.

Âm thầm tuyển chọn hai ức Phật-Tử cùng trở về nơi Vô-Cực.

Đến Hồng-Dương-Kỳ, Mẹ mệnh Thích Ca, lại hoá xuống phàm độ thế.

Lại độ thêm được hai ức Phật-Tử cũng trở về nơi Cố Tây.

Thanh-Dương Hồng-Dương, tổng cộng đã độ được bốn ức Nguyên-Phật-Tử.

Chỉ còn dư lại là chín hai ức nơi khổ hải mãi đắm mê.

Nay thời Bạch Dương, Đại Đạo triển khai, do Di-Lặc Phật ứng vận.

Mẹ mệnh Thiên-Nhiên chấp chưởng Đạo-Bàn để phổ hoá khắp toàn cầu.

Tại nơi Tiên-Thiên, Mẹ không lưu lại Tiên Phật Thần Thánh nào cả.

Mà cùng đầu thai, cùng độ hoá thế, trợ giúp cho cơ Thánh-Đức.

Trước độ người nghèo, sau độ người giàu, kế tiếp độ người quan chức.

Độ cả vương hầu, độ khắp vạn quốc, cùng nhau bước lên thang trời.

Hiện nay đương lúc Thiên Thời khẩn cấp, mau mau nỗ lực gấp bội.

Các con cần phải phát chí cương nghị, độ hoá dẫn dắt kẻ mê.

Nói đến trời lớn, nói đến đất lớn, duy có “Đạo” là lớn nhất.

Thiên mệnh đã lớn, Mẫu Mệnh càng lớn, chí cực chí linh.

Nếu như là con tuân theo lời huấn, thật tâm mà đi bàn đạo.

Mẹ sẽ lệnh cho Chư Thiên Tiên Phật hộ trì các con bình an.



Tương lai về sau những việc này còn quan hệ cực kỳ trọng đại.

Cũng chẳng bao lâu là Thiên Thời đến, sẽ đại hiển hoá chân-cơ.

Cả ngàn bàng-môn, cùng với vạn giáo, triển khai phổ biến khắp nơi.

Niệm bùa niệm chú, hô phong hoán vũ, lại còn đá chạy cát bay.

Chỉ trời trời mở, chỉ đất đất lở, có thể dời núi lấp biển.

Cỡi chiếc ghế ván là bay lên trời, yêu pháp này càng kỳ lạ.

Pháp thuật âm dương, cùng độn ngũ hành, đi lại cỡi mây cỡi gió.

Còn rất nhiều loại thuật yêu ma, cũng khó mà tả cho hết.

Khi đến lúc đó hy vọng con Mẹ phải ghi nhớ kỹ trong lòng.

Nếu như chạy theo, đánh mất Linh-Quang, vĩnh viễn phải chịu bi thê.

Đây đều vốn là do số trời định, Tam-Kỳ vạn giáo hiện phát.

Mẹ của các con định ra diệu kế, là trong đó có dụng ý.

Bởi nguyên vốn là vũ trụ Tam-Thiên, chủ quyền do Mẹ chấp chưởng.

Đến giờ phút đó, Mẹ ban sắc lệnh, tức thì pháp thuật đều tan.

Đủ vạn Tiên trận, lại cùng đến xem, vô cùng náo nhiệt hoa mắt.

Con Tế-Điên khùng, cùng Di-Lặc ngốc, được hiển thần thông quảng đại.

Tay cầm lá cờ, sắc lệnh màu vàng, giữ không trung quơ một cái.

Hô lên một tiếng, tất chư Thần thối, trở lại vị trí cấp bậc.

Phép cũng không còn, thuật cũng vô hiệu, Thần Thánh cũng không trợ lực.

Chỉ còn lại một đôi tay trắng không, khó chống đỡ lại kẻ địch.

Vạn giáo bàng-môn đều bái Di-Lặc, cùng nhau quy về Chánh-Lý.



Giúp cho Tế Công hiện rõ Phật quang, và đạo quán thông Tam-Cực.

Những người phú quý nay thì ngược lại, lạy bái những người bần cùng.

Đạo-đức triển khai, quán xuyến toàn cầu, thế giới tiến tới Đại-Đồng.

Con nào đại trí thì hãy mau mau hạ thủ công phu tu đạo.

Chớ có đợi Thuyền ra tới giữa sông mới vá lỗ thì quá muộn.

Huần phê đến đây, Tam Tài mỏi mệt, Mẹ tạm đình chỉ Kim-Bút.

Ngồi nghỉ lâu chút, rồi đợi Mẹ lại, tiếp tục phân tỉ mỉ hơn.

Phụ Chú :

Triều Sơn : đến các chùa chiến ở những ngọn núi nổi tiếng hoặc những chùa chiền ở nơi xa xôi hẻo lánh để thắp nhang bái Phật. Hoặc là dùng phương thức mỗi bước một lạy hoặc ba bước thì một lạy để tham bái đảnh lễ các Chùa chiền hoặc đạo trường



Bái đỉnh : năm vóc sát đất.




Hoàng Mẫu Huấn Tử Thập Giới

Giới cáo thứ 10






Giới cáo thứ mười dạy Nguyên-Phật-tử rằng thư Mẹ đã hoàn tất.

Sự việc thu-viên vô cùng trọng đại, chớ nên xem như trò đùa.

Đạo ở Tam Cực đều truyền một lý, cùng độ Phật Tử lên bờ.

Khắp cả Thiên-Hạ, khắp nơi toàn cầu cùng nhau xuất hiện toà sen.



Luận về Đại Đạo có chia Tam-Thừa, nhưng Chân-Lý là trên hết.

Lý là thượng-thừa, khí là trung-thừa, còn Hình-Tượng là hạ-thừa.

Nói đến ngoài trời lại còn có trời, lời nói này không phải giả.

Lý là Vô-Cực, Khí là Thái-Cực, và Càn-Khôn là Hoàng Cực.

Cảnh nơi Vô-Cực là miền Thánh-Vực, là nơi cực lạc thanh tịnh.

Giới của Thái Cực, chính là Hiền-Quan, là nơi thường chuyển Pháp-luân.

Còn chỗ Hoàng Cực đây là phàm trần, động vật, thực vật đủ dạng.

Từ Tam-Thừa này mới phân ra được là Thánh Hiền hay phàm phu.

Tu hồi nguyên-thần, tu luyện Tánh-Lý, là chí diệu của Thượng-thừa.

Giáng long phục hổ, thường chuyển pháp luân, là tham thiền của trung thừa.

Còn về hạ-thừa thật là khó nói, cứ chắp hình cùng chắp tượng.

Như là gõ mõ, cùng với tụng kinh, chung quy cũng khó siêu thoát.

Hiện nay Mẹ giáng pháp môn xuất thế, là cơ hội lần cuối cùng.

Người nghe sẽ thành, người đắc sẽ siêu, có thể thành Thánh, thành Hiền.

Cả thảy mười tám đứa tiểu nhi đồng cùng ngồi định tại Trung-Châu.

Tiếng nổ khủng khiếp đã đánh thức tỉnh khắp cả đại địa, càn khôn.

Làm cho vạn quốc, cùng với cửu châu, toàn bộ đều được độ hết.

Cả ngàn Thần Thánh, cả vạn Tiên Phật cùng tụ nơi ở Trung Nguyên.

Hội nghị Tam-Tào sẽ được tính toán, định quả vị kỳ Bạch-Dương.

Quét cho sạch hết những kẻ ác nghiệt, chỉ lưu lại người hiền-lương.

Nơi khổ hải này sẽ được hoá thành bảo-quốc hoa sen rực rỡ.



Cõi Đông-Thổ này sẽ được biến thành tịnh thổ Tây-Thiên-Cực-Lạc.

Thế giới Phật Sống là bốn ngàn năm được vui sướng vô cùng tận.

Dứt hết sát nghiệp, trở về đường thiện, vạn vật đều được sanh tồn.

Hiện cảnh thái-hoà, người như Thần Tiên, Lân Phụng xuất hiện đồng cỏ.

Sóng biển lặng yên, mừng cảnh thanh bình, cùng chúc mừng năm được mùa.

Các con kính trọng, thương yêu lẫn nhau, không còn tranh đấu hận thù.

Năm ngày gió hoà, mười ngày mưa thuận, trở lại sống thời vua Nghiêu.

Chư Phật Bồ-Tát đều được liễu nguyện, chúng sanh đã được độ tận.

Di-Lặc Tổ Sư lên đài sen báu, ban tước vị cho mỗi vị.

Các hoàng-thai-tử thoát khỏi khổ hải, cùng được dẫn dắt lên bờ.

Con là Thiên-Nhiên, dẫn suất nguyên-nhân, cùng đến triều bái kiến Mẹ.

Cho đến lúc đó, nỗi lòng của Mẹ mới buông hết được gánh nặng.

Các con đứa nào lập được đại công, trong lòng vui mừng phấn khởi.



Người nào người nào dẫn đầu khai hoang, một mình lãnh vị Trạng-Nguyên.

Người nào người nào, lập nên kỳ công, vị thăng tiến-sĩ hạng nhất.

Người nào người nào tài pháp song thí, chức được thăng lên thượng phẩm.

Người nào người nào xả thân bàn đạo, phẩm vị thượng-thừa tôn nghiêm.

Người nào người nào thiết lập Phật đường, chứng đắc Kim-Tiên quả vị.

Người nào người nào thay trời tuyên hoá, được ban chín phẩm toà sen.

Người nào người nào chịu tận khổ tâm, chứng đắc ở ngôi Tiên vị.

Người nào người nào siêng năng cần mẫn, là được thăng thưởng vô biên.



Đến lúc đó thì chia ra tam-thừa, vị liệt cửu phẩm rõ ràng.

Chúng Phật-tử nào có lập công lao, trong lòng vui mừng khôn xiết.

Chưa bỏ xác phàm tại nơi hồng trần, thì là ngoại-vương nội-thánh.

Được hưởng vinh hoa, cùng hưởng phú quý, vô cùng tự tại an nhiên.

Còn Nguyên-Phật-Tử đã bỏ xác phàm, trở về Tây Phương Cực Lạc.

Thoát khỏi phàm thai, kết thành Thánh-Thể, chứng đắc Đại-La Kim-Tiên.

Vội vàng mặc lên chiếc áo dài Tiên, ánh vàng chứa chan rực rỡ.

Đầu đội mũ Tiên, có cắm bông vàng, mang giầy mây trổ hoa sen.

Đến bái kiến Mẹ, Vô-Sanh Lão-Mẫu, đưa tay dìu con đứng lên.

Kêu lên một tiếng, con cưng của Mẹ, ngày nay con mới trở về.

Từ nay trở đi, sẽ không sai con bôn ba xuống Đông-Thổ nữa.

Không còn có cảnh phải làm phàm-nhân, chịu khổ hành hạ dày vò.

Được ăn Tiên Đào, cùng với Tiên-quả, lại được uống rượu quỳnh-tương.

Nỗi mừng vô hạn, niềm vui khó tận, khoái lạc vô biên khó tả.

Biểu diễn thử màn thần thông quảng đại, quán triệt trời đất muôn phương.

Dùng thử để xem, diệu pháp Tiên-gia, xoay chuyển càn khôn vũ trụ.

Chân pháp-thân này, dù nhật nguyệt chiếu, vẫn không lộ hình lộ bóng.

Vào lửa không cháy, vào nước không chìm, mà được trường thọ vô biên.

Sẽ không còn bị trời và đất cùng âm dương cai quản chi phối.

Không phải sợ gió, không phải sợ sương, cũng không sợ nóng và lạnh.

Xuyên qua vàng đá, không gặp trở ngại, không bị ràng buộc quản chế.

Đến không hình bóng, đi không dấu tích, du khắp thế-giới Tam-Thiên.

Cửu-huyền thất-tổ của con cũng được siêu thoát khỏi nơi khổ hải.

Con đăng phẩm nào, huyền tổ phẩm nào, cùng được biểu hiện uy nghiêm.

Đám đông Phật-tử tại Cung Vô-Cực, nhộn nhịp thiết lập yến tiệc.

Thánh Thần Phật Tiên cùng đến hội tụ để tham dự Hội Long Hoa.

Từng đứa con một mau đến trước mặt, cung kính khấu bái Hoàng-Mẫu.

Làm Lão-Vô-Sanh vô cùng mừng rỡ, muốn nói cũng không nên lời.

Rót một ly rượu Cam-Lồ Bồ-Đề, ban cho các Hoàng-Thai-tử.

Chúng Phật Tử được dự buổi tiệc Tiên, niềm vui khoái lạc vô biên.

Hội đại đoàn viên, Mẹ con đoàn tụ, thật vui sướng vô cùng tận.

Nơi cung Vô-Cực, tiếng vỗ tay cười, cả trời đất cùng hoan hỷ.

Mới thấy rõ được tu trì Thiên-Đạo thật là chí tôn chí quý.

Không có thiệt thòi cho con của Mẹ khổ tâm làm người hiền-lương.

Thư phê đến đây đã được hoàn tất, Mẹ sẽ thu hồi kim bút.

Đem lời của Mẹ khắc sâu vào lòng, ngày đêm cung kính chớ quên.

Mẹ huấn thư này, được đặt tên là “ Hoàng Mẫu Huấn Tử thập giới ”

Tĩnh lặng một chút, Mẹ lại tiếp tục phê thêm cho con vài lời.



Ngừng


Cầm bút dặn dò chúng nhi nữ

Tuân lời Mẹ dặn thiết thực hành.

Mong con hết lòng và hết sức.

Đánh thức người si khỏi cảnh mê.

Cực lạc cố hương nay vắng lạnh

Tiên Phật cứu thế giáng hồng trần.

Bốn ức cùng nhau hạ phàm giới.

Nào ai hiểu rõ được căn nguyên.

Minh tâm kiến t ánh thấy cố chủ.

Lúc hối vỗ ngực lại giậm chân.

Thời giờ quý báu chớ bỏ lỡ.

Kim-kê tam xướng Đại-Đạo hoành.

Thừa lúc nửa ẩn và nửa hiện.

Tuân lời Mẹ dặn thiết thực hành.

Nếu như sao chép sai ý Mẹ.

Hạ đàn hiệu đính cùng sửa sai.

Chép xong thư này mau ấn loát.

Phổ biến lưu truyền Mẹ đẹp lòng.

Khuyến hoá độ chúng lập công đức.

Cứu rỗi chúng sinh rời ngục sâu.



Sách phê đến đây Mẹ ngừng bút.

Dẫn chúng Phật-tử về Diêu Kinh.

Giây phút biệt ly lòng như cắt.

Hỏi con phải chăng thiết thực hành.

Mẹ hỏi câu này rơi huyết lệ.

Chớ xem lời Mẹ như gió bay.

Thiên-Đàng Địa Ngục tuỳ con chọn.

Biếng nhác chểnh mảng xuống vực sâu.

Mẹ không phê tiếp biệt nhi nữ.

Rơi hàng huyết lệ phản Thiên-Đình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét