Thứ Bảy, 23 tháng 1, 2021

NGỌC KINH (NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ TÂM KINH)


NGỌC KINH (NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ TÂM KINH)



Huyền Không Thiên Thượng ban kinh cho Giáo Hội Thiên Trường vào ngày 01 tháng 05 năm Canh Tí (21/06/2020), giờ Mão; ngày 09 tháng 05 năm Canh Tí (29/06/2020), giờ Tí; ngày 01 tháng 06 năm Canh Tí (20/07/2020), giờ Tí; ngày 01 tháng 07 năm Canh Tí (19/08/2020), giờ Tí. Đàn tràng Nam Thành, Tòa Đình Trung Ương Quốc Ngoại Nam California dự đàn, Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất.





NGỌC KINH
(NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ TÂM KINH)



Phẩm Di Đà Kim Sắc Nhạn Thinh

[Chữ Nhạn bộ Chuy: danh từ có nghĩa là thư tín, tin tức, thông điệp. Kim: nay, hiện tại. Sắc: ấn sắc]


Diệt tiêu tiêu diệt kiếp nhân sinh
DI ĐÀ hằng mở chuyện DUY LINH
Rằng mau tỉnh giấc vượt mê biển
DI ĐÀ KIM SẮC PHẨM NHẠN THINH.


TĨNH TÂM phút xét suy thời loạn
TÂM TẤT THỊ PHẬT cũng kề gần
Ngày giờ giây phút bụi trần rũ
ĐẠO ĐÂU XA bởi lòng thoái sân.


Ngắm cảnh trần hoàn hợp lại tan
DI ĐÀ PHẬT TỔ vọng xa gần
Xót thương kẻ thế mãi mê muội
Cung đàn sáo nhạc mãi âm vang.


Sông mê khổ thoát lòng cầu ước
PHẬT muốn thế ni tạng TRÍ LƯỢC
PHẬT ĐƯƠNG THỂ GIẢI NHÂN GIAI CỌNG
KHAI TRÍ TUỆ CĂN LINH THÔNG BƯỚC.


Cứu nhân khổ nạn cõi Ta Bà
Hiện ánh mười phương diệu diệu xa
LÒNG TỪ THƯƠNG XÓT NHÂN GIAN CHÚNG
DI ĐÀ PHẬT TỔ PHÓNG QUANG TÒA.


Trần ảo vần xoay bạc ác hung
Điên đảo đảo điên độc dữ cùng
Chúng sinh u ám tối tăm loạn
Nước bể lệ tuôn đoạn thảm chung.


DI ĐÀ BI ĐẠI đời sa đắm
PHẬT TỔ hư vô hướng thiện tầm
Bụi trần phiền não oan gia nghiệp
Tâm Kinh tu ĐỨC lực VÔ thâm.


Sổ vàng ghi chép ác thiện toán
Nhân gian xa gần nước muôn dân
Hư không y thượng thiên sắc thế
Thiện pháp mô trì giả chúng nhân.


Túc thần túc trí nhân ái kính
Phổ độ cảm hóa bi cứu linh
Linh nhân lợi lạc phương thường kiến
PHẬT quán từ bi thời hiện thinh.


Nhân sinh ly loạn nhân nạn dữ
Oán tất hãi kinh nhứt thiết chư
Nhận thu bất tận tu vô lượng
Diệt khổ đắc sinh phiêu phiêu như.


Tâm là quý nhứt chớ coi khinh
Đừng mê đừng loạn bởi tâm mình
Dưỡng tính an thần TÂM phải ĐỊNH
Cho KHIẾT cho TỊNH mới an bình.


Mau tỉnh giấc nồng bớ nhân sinh
Tranh ăn tranh thứ tự giết mình
Mở lòng QUẢNG ĐẠI TỪ BI chúng
Ân hồng NGỌC CHỈ sắc ban linh.


TU mọi sự thế chính vững bền
ĐỨC TIN tính SỬA LÒNG cố tu
Làm nên biết rõ sanh kịp nền
Chuẩn phàm tục hoá thanh tao tự.


BIẾT HỐI tu trì được thân nên
Hối kịp cảm tắc nam tín nữ
Ngộ đạo chí công sức lực truyền
Cải hóa trong sạch nợ trần rũ.


Hóa đất phúc nay đến Nước Thiên
Mê tránh kẻ thế muôn hồng tử
Giữ việc mọi đàng chuyên tâm bền
Theo chân ĐẤT PHẬT TÒA VÀNG NGỰ.


Lành nhiệm kỳ thay lòng MỘT NIỆM
Cảm hóa mai sau mọi đàng tu
Đức vẹn bền chí năng hành thiện
Hóa giải bi ai ĐẠO ĐỨC tu.


Chúng sanh phiền não lộ tắc phiền
ĐỨC hoán thông vô thiên thủ thiên
Niệm PHẬT PHẬT độ linh sanh chúng
Hiện thân vớt kẻ đối PHẬT tiền.
[chữ Tắc bộ Đao = thì, liền ngay]

Muôn dân sĩ tử
BI TỪ mở lòng
Một lòng mộ đạo
Tận đạo thần tôn
Báu muôn phần quí
Một khi thoát nạn
Tiêu tan bịnh tai
Đông Tây Nam Bắc
Thời lạc tiêu tan
Ân cần niệm Phật
Thời tất ách tai
Khi nay sóng gió
Túc mô thông lực
Tỉnh thức kiến PHẬT
Có ĐỨC có NHÂN
Thế trần giáng độ
Nạn khổ siết bao
Cảnh nào hẹp lối
Hại người gớm ghê
Đục mê nặng nề
Lối về chẳng rõ
Bảo cho đường lối
Viên hội NHỨT LINH
Tiền sinh trái nghiệp
Vạn kiếp oan thù
Người u ám đọa
Vạn khổ liên miên
Trần miền trầm luân.

Tầm cơ linh giác độ nhân sanh
Long Đình thị hiện THIÊN HOÀNG thành
Chiếu soi điền trụ muôn sự khó
Sắc mà sắc vẫn TRỜI ban lành.


Định tâm an lạc một lòng thành
Ngộ tâm kiêng dốc não rũ thanh
Trì kinh TU ĐỨC bình an thọ
ÔN NHU TỪ BI đất phúc lành.


Rõ ràng bệnh tật tai ách lửa
Tội ác xét ghi tỉnh hồn chưa
Phép TRỜI phân minh kiêu ngạo tội
Hỏi đến tiêu tan sao thớt thưa.

Dương trần nhiều nỗi thảm thương vong
Chúng sanh chẳng biết rộng Lư Bồng
Phận hiền thắc cũ tựa TÙNG BÓNG [Thắc = sai lầm]
Chuyển xoay Ngươn Ba chóng BÓNG TÙNG.


TỪ BI xem trọng lòng từ chúng
Chiêu một cõi đời dụng năng khai
Đà rõ ý duyên CHÁNH PHÁP hái
Dựng cảnh Thuấn Nghiêu lại thời lai.


Trẻ già tựa cánh soi gương mãi
Cao Xanh điểm hóa tại tâm căn
Nhẹ nhìn Phương Tây định thất thần
Nhựt nguyệt phi đài vẫn Khổng Thánh.


Trổ kỳ tam, QUỐC dạy hồi sanh
Lắng nghe nhè nhẹ thanh sử kiết
Nghiệm kim suy cổ trời đất xiết
Tương tàn tương sát thiệt tranh ao.
["trổ kỳ tam" = trở lại lần thứ ba]

Nay trời tăm tối biết thế nào
Mau mau tỉnh ngộ lau Phật cảnh
Gốc tích người xưa điểm kiểm thanh
Lòng giục ngắm nhìn tranh nhân thế.

Gió Tây lay thổi đến chiều về
Gầy dựng cảnh bốn bề sáng chói
Sen đài mọc mụt chồi đâm trỗi
Chỉ thiện tu hành khỏi ngẩn ngơ.

DIỆU PHÁP LIÊN HOA chuyển trận cờ
RÁNG HIỂU CHO RA rộ mới vui
Thức giấc ráng lên chớ có lùi
Nhủ khuyên NGƯỜI ĐẠO trui rèn luyện.


HẠNH ĐẠO ráng tu giải đặng lên
Nếu TU phải mức nên GIẢI TỤC
GÌN CÂU LỤC TỰ thân hạnh phúc
Mới là ẩn ý LỤC [TỰ] DI ĐÀ.

Khai tâm bổn thiện nêu rõ dạ
Cố gắng tầm xem hạ cổ bài
Chỉ trong bốn bực LONG LẦU giải
CHIẾC BÓNG TỪ BI TÁI HẠN KỲ.

XUẤT THẾ gian truân giải nan phỉ
KHẢ ÁI DUY TÂN lý ngộ bày
Đất Nam chói rạng TỪ BI trải
Diệu HUYỀN [THIÊN] kim cổ TÁI LÂM TRẦN.

PHÁP THIÊN luân chuyển đặng tánh Bồng [Lai]
BỒ TÁT TỪ BI ngõ PHẬT thông
Lái thuyền nang, sóng vừng bốn vách
Duyên rộng khói lồng cảnh mục sông.

Hồng trần khó kiếm KHÁCH vào đây
NGỌN ĐUỐC TỪ BI chiếu sáng đầy
Soi đường phơi trải phanh phui cạn
NHÃN quang THẦN nhìn thẩm ban mai.

[Chữ "Khách" này ý nói nằm trong 4 chữ "QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO" của Bửu Sơn Kỳ Hương đã được tiên khải và lưu giữ hơn nửa thế kỷ. Chữ "Khách" này là chỉ "Huyền Thiên kim cổ tái lâm trần".]

BÌNH MINH sáng trong trời nắng ấm
Gom hết văn thi tỏa trông tầm
Hội Yến điển linh thân thân diệu
Tây Cung văng vẳng CỐ TRUY TẦM.

[BÌNH MINH = Minh Thiên = Huyền Minh = Huyền Thiên]

SÔNG còn biển rộng tưới thân mang
Lòng son tha giác hướng định bày
Thiện hiền sức mở NGÀI Phật Pháp

Diệu Pháp thinh âm mở thần xoay.

[SÔNG = ám chỉ HÀ, phàm danh kim thân của Huyền Thiên. HÀ QUỐC = tên họ của Đức Ngài Hoàng Di Thiên.]

Ngắm nhìn bốn phía cõi trời mây
Một cõi HUYỀN THIÊN tỏa kỳ tài
Vẹt màn ngũ uẩn kỳ hồi khó
LÂM PHÀM thử thách thế nhân hay?

Ráng niệm Nam Mô giải luật trần
NGƯỜI TU phải ráng lập công huân
KHAI CĂN MỞ TRÍ diệu thâm đáo
Chữ TU chơn chánh thoát vi năng.

Ngày lẫn đêm mong cầu QUỐC Đạo
Cả đời hành đạo rõ âm hao
Quyết đi tới chốn non tiên cảnh
TỪ BI miệng niệm một cảnh nào.

Màu trời Hội Yến sớm qui về
Chèo cho ngay lối thoát kiếp mê
Dù cho khảo quả không lùi bước
Quyết chí tu hành dựa Bồ Đề.

Canh Tí bước sang cuối Thu tàn
Đảo lộn viễn cảnh đời chớp tan
Một khi TRỜI giáng hồi sinh tử
Ai thoát Tam Đồ khổ não nàn.

Tam Thiên Thế Giới tiêu trần cấu
NIỆM PHẬT NHỨT TÂM cảm hoá cầu
THIÊN THỦ THIÊN NHÃN từ bi cứu
Nhân thế thời tiêu định sáu câu.

Mở phút vui đầy đủ nghĩa nhân
Thâm sâu ý nặng chạy lớp màn
Năng ngộ tạo hình mở ra ý
CHỈ BÓNG TỪ BI LỘ THIÊN HOÀNG.

Khai câu ĐẠO ĐỨC chiếu khắc sâu
Rộng tình BÁC ÁI cuộc trần bâu
Kiếp người chất chứa trần ai khổ
Tìm cõi tu hiền THÍCH CA MÂU [NI].

Vô hình thấm thía cảnh lòng nhân
Sức sống đời tận sắp đến gần
Sớm không tu tĩnh chẳng yên thân
Thượng cổ dĩ ghi giáng thế trần.

Ngưỡng thượng đàng sinh có phúc duyên
ẤN SẮC DI ĐÀ chốn đàn tiền
Kim quang chiếu rọi hoan nhiên toại
Xoay hướng TỪ BI bởi CAO THIÊN.

Chiết thân rõ bóng ảnh vô hình
Thần thông vận chuyển bởi tâm linh
Sắc khai nhựt nguyệt Phương Tây phản
Bộ máy thiên thiên chứa cuộc thình.

[Thiên thiên = ngày ngày. Thình = gìn, giữ như cổ ngữ thình lòng có nghĩa là gìn lòng. Chiết thân = tách một phần linh quang/linh thể xuống thế.]

TẠO THÍCH GIÁC THUYỀN cẩm nang thơ
CHÁNH PHÁP nghiêm mình một định chờ
Thao lược Đông phong tư nang lái
Chí tỏa tang bồng dạy giấc mơ.

BỒ TÁT TỪ BI ngõ PHẬT chờ
Tùng quang hạn mạch truyết tri cơ
Tạo thể hữu vi vô sắc mệnh
Gởi trọn Kỳ Yên đến bến bờ.

["Truyết" là chữ Nôm đồng nghĩa với chữ Triết bộ Xích chữ Hán có nghĩa là "thấu đáo tới tận cùng/rốt ráo"]

Dòng giống LẠC LONG cơ đáo thế
Trang sử QUỐC ÂN tái lập tề
Định quốc an bang chuyển dời đúng
Bỏ lỡ uổng công bậc MINH [THIÊN] về.

[Bậc Minh về = Minh Thiên giáng thế. Minh Thiên = Thiên Minh = Huyền Minh = Huyền Thiên = Huyền Thiên Thượng Đế = Huyền Khung Thượng Đế = Ngọc Đế = Bạch Ngọc Đế = Đại La Thiên Đế Thái Cực Thánh Hoàng = Thiên Chúa = Đức Chúa Trời]

Tâm tình cổ bóng ẩn tùng ân
Tinh hoa kết tụ [NGỌC] ĐẾ khai thần
Thần Thánh Phật Tiên đều hạ thế
UY PHONG VÕ LÝ tuyệt vời năng.

Mật độ khai chốt cột nhà Nam
Ra oai xét bổ vô khuôn tầm
Quân kỷ TAM THANH kỳ lập hạ
Đất Nam chói rạng xuất thần hàm.

Kỳ ba LONG [HOA] HỘI tạo vĩ mô
Thiện phước trữ nhiều ắt khôi ngô
Màu trời xoay sắp trải nâu áo
Hạng mục HUỲNH KỲ mức tựa hồ.

Dữ biết bóng SƠN LINH hồi định
BẾN CŨ ĐÒ KHAI cảnh vô hình
Mọi cọc tầm sâu nhìn rõ nét
Thuần túy nang thơ tỏa SƠN MINH.



PHẨM DI ĐÀ ĐẠI LỰC DIỄN NGỌC KINH




Bước rõ lai trào thấu thật hư

Ngươn này chỉ một sợi chỉ TỪ


Nào ai rõ biết Thiên Cơ thế

Bước tới Cửa Thiên ánh nguyệt như.



Quang âm khai, mở cột chiều mơi

Dầu trải gió Xuân chẳng tách rời

Kiên tâm gác bỏ, lòng thử thách

Giác độ can qua phận vun bồi.



Khai ngôi, cửa mở lặng chiều mơi

Chưa định tạng ra chớ buông lơi

HUYỀN THIÊN KHAI HỘI tâm căn định

Tựa cánh bông sen rộ nở ngôi.



Chớ có phụ công cảnh THIÊN OAI

Cơ trời HÓA TẠO ý cuộc hài

Cung đàn chưa diễn âm thinh chuyển

Vô vi soi đường mở qui lai.



MỘT [NHỨT] THIÊN di ẤN GIẢ phương chi

TỪ BI tận độ ách nan trì

DI ĐÀ phóng tuệ nguyệt vân ảnh

Tư phủ tiên bang liệt giá ai.



Lai lâm trắc giáng trừ Tam Chướng

Tam Đồ Lục Đạo chúng sinh tường

QUANG MINH DI ĐÀ Kinh Đoạn Diệt

Đông Tây Nam Bắc phúc thùy trường.



DI ĐÀ ĐẠI LỰC DIỄN NGỌC KINH

Chín nhựt xuân THIÊN Nguyên Tiết MINH

Lưu truyền nhứt bộ kinh ân cú

Ân giáng trần tâm giới thinh thinh.




[Nguyên Tiết là ngày tết liên quan đến Khuất Nguyên (điển tích), tức nói tới Tiết Đoan Ngọ hay Tết Đoan Ngọ. "Chín nhựt xuân thiên Nguyên Tiết minh" có nghĩa là "ngày mùng chín Tết tiết trời Khuất Nguyên sáng lạng". Nói thẳng là "vào ngày mùng 9 tháng 5 Tết Đoan Ngọ."]



Thanh tịnh trí tuệ chúng hàm chân

Ấn diệu sáng gương nhân đắc truyền

Cảm lòng THIÊN ĐẾ, LINH ẤN hiện

Huỳnh Lâu ứng diệu điển giá đường.



Qui y tu Đức Phật hằng thương

Truyền cảm chín từng Phương Tây tỏa

Luyện Đạo chân tiên QUỐC HÀ sa

Vô vi đại điện tòa cao thượng.



["quốc hà sa" = hà sa quốc độ = cũng ngụ ý "QUỐC HÀ Sa Môn" hoặc "QUỐC HÀ Sa Bà". QUỐC HÀ là phàm danh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên.]




PHẬT TỔ ĐẠI BI thế xót thương

Suy ra thời xấu tường chân lý

Tối tăm u ám độc sân si

Đắm sa bể khổ kỳ ma quỷ

Hút người chẳng tanh cõi thế ni

Cửa Trời đã mở qui tu đức

Tịnh xét đoán công tạo chính trực.



Bước đi thân hạnh rực sáng tâm

Khiến lộng điển linh bảo lối thầm

Tàng linh ẩn bóng lam châu chứa

Ngã Phật dạy từ tạng màn xưa

GỐC XƯA LUÂN CHUYỂN vừa chiếu hướng

MINH THIÊN vũ trụ dạ KỲ VƯƠNG.



Niệm Phật gắng công ra sức lòng

Bông sen thay sắc vô trung không

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn

Dĩ vô sở đắc Phật hiện đồng.



Chú dạ tâm vô tổn hoại hoán

Duyệt giáng cửu thanh chí bảo quang

Nhân bạc sinh khổ nhân giả khổ

Thuyền du tạo pháp thiên tường vân.
NGỌC CHƠN CUNG KHÁNH ĐẾ QUÂN KINH

THANH ỨNG THIÊN TÔN thùy PHÁP linh


Muôn kiếp vẹn tuyền thần sắc khí

Thượng đạo quân đạo tuyên vương bình.
[Ngọc Chơn Thanh Ứng Pháp Thiên Tôn]


Cơ thảm thay sinh cáo phả minh

Tri chiến mục đầu cạn bay thinh

Khéo léo niềm tin nông cốt cạn

Cuộc thế đổi thay Phật xoay hình.



Say kinh bổn dư âm trổi nổi


Đáo hạn Canh theo gót Tổ hồi

Thời tuy đến rồi thân say mãi

Khai điểm thời gian khát nước thời.



Khiếu khiếu đầu muôn báo ân thâm

Chẳng khoe tài giỏi giải việc tầm

Tôn hiền ngụ đức âm công đức

Đoạn tuyệt lục trần thanh khiết tâm.



Sạch rửa lòng trần tỉnh mê si

Chẳng nhớ oán thù quyết luyện đi

Đừng nói thiệt hơn gièm pha cợt

Kìa thuyền đón chở Phật hẹp chi.



Tí nguyệt Canh LINH PHẬT giá đàng

DI ĐÀ đại lực đại hiệu ban

Duyệt kinh thế xứ thông cú khể


Tất ứng tất cầu xứ xứ hưng.

[Khể bộ Mộc = mở ra ,khải]


Hư không tằng cửu hậu thế minh

Kinh văn nhứt thủ diễn NGỌC KINH

Lai lâm Nhứt Phẩm DI ĐÀ diễn

Kiên tâm tâm tất thị Phật trình.



Chiếc bóng từ bi THƯỢNG THIÊN khai

Thơm diệu ngọt bùi cảnh liên đài

Cơ Trời sửa soạn vi tiêu diệt

Tàng linh cửa mở hội anh tài.



MÔ THIÊN NHÃN THIÊN ĐẠI TỪ BI

Khổ khổ phiền não nhứt đảnh qui

Kiến Phật nhân linh thần thông lực

Giả chúng giả nhân linh nhân si.



Sắc sắc không không bao la giới

THÁI THƯỢNG KIM TINH truy định nơi

Canh Giáp đạo giá thùy đầu pháp

Ta thiệm hồn sanh rực bầu trời.
[Thiệm bộ Bối = cung cấp, cứu giúp]




Ngõ hầu ai ai biết hối tâm

Muôn sự đời bền tu đức thầm

Trời Phật Tiên Thánh mới giáng ấn

Thiết thực nhân tâm đức chuẩn làm.



Cực Lạc sen báu hiên vô biên

Phật hiện tại tâm cần cho chuyên

Tâm phải thinh thinh linh linh ấn

Chuyên tâm bất dịch đạt cửu truyền.



Mực xiết vòng tay đẹp Thiên Đình

Trọn câu Phật Pháp phỉ huy ninh

Ấn vị Kim Bàn đo lộ thước

Thuyết năng khai cảnh nhập vô hình.



Khai định kịp thời khỏi chơi vơi

Cất bước cửa thiền định chỗ ngồi

Kinh huyền mở rộng lịch lãm kỷ

Vô hình âm lai hiệp ý thời.
Một Đạo dồi trao bước thản nhiên

MINH QUÂN sáng tợ bí mật HUYỀN

Bàn cờ sắp đặt tàn quyết sửa

Nhược thủy liên đài ức vạn niên.



THIÊN đức PHẬT cho đạo an vui [Thiên-Phật]


GIÀ LAM thông chỗ chớ bước lùi

Mọi việc trong ngoài lực xoay chuyển

Thay thời vận chuyển rảnh ngùi ngùi.



Trái đất một phen luân

Cõi lưới căn kịp thời

Nhi tử mạng THIÊN TRỜI

Mây lòng vơi gọi gió

Đất khách một mình lộ

Gió phất phơ điển thiêng

Chạp dạ thầm THIÊN HUYỀN

Đạo lưu truyền phận sự

Hội kỳ bày định xứ

Thế trần như mênh mông

Trổi âm thinh trầm bổng

Gìn gương Khổng thiêng liêng

Khai cõi ngộ trần miền

Ức thiên niên cửu trạm

Sức sống đời bao năm

Gội thân phàm linh phục

Nên lai thảo thân túc

Kỳ đến phục diệu thâm

Tiết trời đạm mây lam

MỘT đồng TAM nhận định

Cơ trời mở OAI THINH

Bóng vô hình bóng xế

Qui tam thủ kỳ bệ

Trời bồng bế tâm tu

Vai mang đa phận sự

Xuân Hạ Thu Đông vào

Trọn tu rõ âm hao

MỞ LỰC CAO thầm lặng

Máy thiêng liêng định ấn

CUỘC PHONG THẦN thảm bề

Thúc qui hồi thủ lễ

Qui trở về tâm tu

Mở phút vui đầy đủ

Mục niệm từ vượt qua

Sống sanh cõi Ta Bà

Nhiệm kỳ ba mọi sự

Tu hành thoát cảnh hư

Diệu quả từ bi ẩn

Diệt hết sáu trần thân

Toàn bông năng lượng tính

Chiếu diệu lực âm tinh

Trổ điển linh phước đạo

Cổ lai nền tái tạo

Luân thế cao lộng mềm

Mục đề sánh bằng an

Bá tánh đang hồi khổ

Mở lực dần thiên cổ

Ứng hài lộ long châu

Lót đường phơi trải thấu

Đo cạn sâu mới hay

Nên động thủ vắn dài

Trống điển thay thời vận

Đột phá vô minh trận

Tác phi phần cõi mê

Trần xem thấy ủ ê

Hay nẻo về chiều hướng

Bỏ lở trước Phật đường

Niềm tin thượng lai cảnh

Mở rộng lục căn thanh

Qui nguyện lành đạo diễn

Tạng ra chớ tạo phiền

Thành qui nguyện LONG HOA

Chờ TỨ THÁNH thứ ba

Kim cổ ra thời đại

Âu thời vọng chuyển xoay

Cõi trời Tây tạng cổ

Âm thinh máy huyền cơ

Sửa cảnh bờ đưa đến

Chiếc bóng thuyền hoa liên

Đến trổ yên đắc đạo

Gìn mối một thể rào

Rõ lai trào hư thật.



Nhẫn nhục chơn tâm dạ như không

Thân ai như nấy thương thể đồng

Sân tâm trung hỏa thiêu công đức

Nhơn ở có nhơn tích đức phòng.



Thề cải ác theo điều Phật dạy

Giữ thân bền ngay thẳng thẳng ngay

Giận thì sanh dữ hỏa năng thiêu

Muốn theo Bồ Tát hóa BI tài.



Dựng lại Ngươn Ba cõi hồng trần

Muốn lên bền chí tu đất thân

Vô ảnh mới tạng châu mới hiện

Giờ HUYỀN mời khách thường chuyển luân.



Giáng cơ mây xanh diệu trần lâm

Nghĩa rành bởi dạ hành tu thầm

Tầm hoan đoái lại Tiên Đạo có

Độ người khỏi đọa hết mê lầm.



CHUYỂN LUÂN VƯƠNG đền tại Biển Đông

Trái đất rung cầu Nại Hà cầm

Sống lâu thác yểu đều định rõ

VUA PHONG ĐÔ đại biến hóa phong.



VĂN XƯƠNG ĐẾ QUÂN đổi sự đời

Dê quanh co đi chia sáu ngôi

Đừng mơ sự đã đến khuyên người

Tay cầm gương xá ĐẾ khoán ngôi.



Từ năm THƯỢNG ĐẾ phê chỉ chúng

Giảng mà khuyên đời chừa lỗi tùng

ĐẠI ĐẾ, THẬP PHƯƠNG THẦN THÀNH HOÀNG

Truyền cho đời biết ĐẠI ĐẾ [HUYỀN] KHUNG.



Nói lậu tên nghe ĐẠI ĐẾ KHUNG

Ta hiệu THIÊN THẦN ĐẾ VƯƠNG CUNG

Hiện báo lành dữ đời này họa

Ăn năn muộn sao kịp kiến [Cửu] Trùng.



PHONG ĐÔ ĐẠI ĐẾ cơ thần long

Ngũ hiển linh quang tuế lạp đông

TAM MAO ỨNG HÓA CHƠN QUÂN hiển

ĐẠT MA SƯ TỔ, THÁI ÂM CÔNG.



THIÊN TÀO CHƯ TỬ hạ môn quan

NGŨ NHẠC NGŨ ĐẾ giáng hạ đàn

ĐẠI ĐẾ ĐẨU THẦN quây công lực

BẮC CỰC TỬ VI ĐẠI ĐẾ phang.



ĐẠI THÀNH CHÍ THÁNH VĂN VƯƠNG tử


THÁI ẤT THIÊN TÔN thần lập xứ

VI ĐÀ QUANG NHỰT THIÊN TỬ đa

BẮC PHƯƠNG NGŨ ĐẠO ĐẾ THIÊN du.



Tiên Phật giáng hạ ngược sắc khai

THÍCH CA, CHƯ PHẬT giáng thế bày

Thiên du THƯỢNG ĐẾ lành dữ xét

Ứng báo người đời họa đời này.



THẦN CÔNG DIỆU TẾ HỨA CHƠN QUÂN

NGƯU LANG CHỨC NỮ TRUNG NGƯƠN THẦN

DIÊU TRÌ VƯƠNG MẪU NƯƠNG NƯƠNG phổ

THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ ngự giá trần.



THƯỢNG LÃO TƯỚNG CÔNG nhạn KHƯƠNG đồng

TAM SÁT HUYỀN ĐÀN ĐẾ hư không

CỬU ĐIỆN DOÃN CHƠN NHƠN qui ứng

THIÊN HẬU NƯƠNG NƯƠNG ẩn thần phong.



NHÃN QUANG THÁNH MẪU soi chiếu thế

THIÊN QUÂN THÁI ÚY ngũ đạo tề

HIỂN VƯƠNG PHẬT giáng, LÔI THẦN HỎA

TẢ TƯỚNG TỬ CHÂU CÔNG luật phê.



NAM CỰC ĐẠI ĐẾ tụ đêm nay

NGUYÊN SOÁI THIÊN QUÂN THÁNH lĩnh tài

Phùng chơn oai hiển nếu tu phải

HOÀNG ĐẾ VƯƠNG LINH trấn giữ ngoài.



NHỊ LANG THIÊN XU TẢ TƯỚNG QUÂN

THÁI TUẾ PHỔ AM TỔ SƯ thần

PHỤC MA PHÓ TƯỚNG TRƯƠNG VƯƠNG hiển

LÔI THINH ĐẠI ĐẾ giáng hạ trần.



NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ TÂM KINH chuyển

THƯỢNG ĐẾ CHÍ NHÂN thế phục nguyên

Những ai phụ cả ân từ đoản

Ghi nhớ đinh ninh ĐẾ NGUYỆT THIÊN.



Lời NGỌC ĐẾ ngũ niên Canh Tí

Dặn rằng dương gian chúng nghe y

Thay hồn đổi xác khó lường giữ

Lời phán NGỌC thơ phẩm KINH qui.



Ta là BẠCH KHỞI tướng mạnh TẦN

Danh thần công có thấy khương mang

Kinh thế luật rằng nhân hưởng phước

Thử lòng nhân thế truy bản năng.

[Bạch Khởi, Vương Tiễn, Liêm Pha, Lý Mục dược cho là bốn nhà cầm quân giỏi nhất nước Tần]




QUÁN TIÊN BỘ lập bàn song cơ

Mâm cây vuông đổ cát đàn hò

QUÁN TIÊN kêu ai biết tu thiện

Phàm nhơn khấu vấn giả tốc trò.



Chẳng hay trong đời việc chi quí

Kính đạo, sĩ thầy, pháp thứ nhì

Ăn năn chừa lỗi làm lành thiện

Người coi đọc lấy biết tu trì.



NGỌC VÂN NGỌC ĐẾ chỉ dụ phê

Tích làm Bồ Tát biết nội bề

Giáp Thìn tháng Ba năm Nhâm Ngũ

Nay trở dương gian nhìn chúng mê.



Chẳng qua đời kiếp ngắn ngủi này

Trời đất không tư vị tại ai

Lành dữ rốt rồi đều trả quả

Tỉnh lại mà tu chớ mới hay.



Mau tâm phước khí tụng kinh cầu

Thiên Đường Địa Ngục có xa đâu

Tại lòng chực giữ vòng muôn kiếp

Sớm tai nghe thấu mùi đạo mầu.



Biết sự sanh đâu biết sự thác

Gẫm người vật không khác máu xương

Xin hiền lương hành chánh đạo phương

Tu Tiên Đạo tuần hườn dựng lại.



Chữ Tam Công nhắn ai qui giái

Giữ Đạo Tiên mới thấy bổn lai

Non vô ảnh muốn hy hiền phải

Đờn không dây tiếng hãy còn nghe.



Khách Tây du quá dễ năm phe

Dằn nhìn dạ thiếp mê vọng tưởng

Mở cửa lầu chói hiện quang tương

Dùng ngọn giả Tây Phương rực sáng.



Trống thùng tạm dứt điển linh hài

Canh Tí thông thạo mật cơ xoay

Tạm lui linh điển xoay chiều hướng

Cơ thần nêu rõ cực ngươn này.
[tiếp theo 20/7/2020]



Dư âm trổi ngộ ra chơn lý

Thả lòng từ ban rải nang thi

Khấn thuyền uyên tử hồ thảm lạng

Khai ngộ cổ bài rải đàn li.



Mang sầu khối mỏi mòn kim cổ

Ký thân già HUYỀN rảo họa đồ

Cảnh héo von nguồn tắc nghẽn sâu

Giờ chưa đến HƯNG yên khai ngộ.



Nghịch giả cảnh gìn tâm thiện tánh

Thí thì phước thiện đường rõ lành

Làm lành làm phước chuộc tội lớn

Hiển vinh miên viễn hưởng công thành.



Mộng ảnh vi pháp huyền ưng tác

Vô hình bất thủ bất động lạc

Lai tâm bất khả hiện tại tâm

Như điển nhứt thiết bất khả đắc.



Như lai giả vô sở tùng lai

Diệc vô sở khứ cố danh tài

Không vân tưởng sẽ đến đừng ước

Tu bồ đề quá khứ tâm lai.



THIÊN CHÍ TÔN NGỌC HOÀNG HUYỀN CUNG

Muôn từng trời xanh HOÀNG THIÊN KHUNG

Ao sen đỏ vàng xanh trắng rỡ

Vui thay khoái lạc phúc lành chung.



Cực ngươn này vất vả thế trần

GIẢI SẮC KHAI THẦN GIÁO CANH TÂN

Tây kim cổ công cảnh rơi mài

Điển cơ pháp xuất thần kim oai.



Hiệp khách trải đàng giục thúc cơ

Long lầu giải phú oai THIÊN VÕ


Diều hâu ngưng gió bay nào lạ

Đài Minh Cảnh thâu chúng sanh khó.



TA tại Hội Nam Phương huyền bí

Mắt thấy rành soi kỹ cốt phàm

Cách đi cách đứng nữ nam

Có biết chi cớ MẸ nằm mõi mê?

Ơn TRÁI ĐẤT nhiều bề thập tử

Kém hình hài lo đủ rõ ràng

Cớ sao chẳng hiếu song thân

Cưu mang gìn giữ mòn thân thể nào

Ơn CHA MẸ cù lao dưỡng dục

Nặng trên vai lục đục vì con

Ơn CHA nghĩa MẸ cho tròn

Chẳng khi thức tỉnh MẸ mòn CHA suy

Tội bất hiếu thể gì đền đáp

Ân chưa đền mau tập hiếu nghi

Giọt hồng CHA MẸ tôn vì

Nữ nam nam nữ mớt nghì MẸ CHA


Người thọ khổ tính ra đau thấu

Ân thâm song ân sâu muôn ngàn

Vậy mà ân dưỡng như TA


Than rằng quả thật bi lân nặng nề!

Kiếp ân trả tội kể trọng thay

Bất hiếu CHA MẸ thấy thảm sầu

Kiếp này nên biết sáu câu

DI ĐÀ LỤC TỰ thuộc làu yên thân.



Biển trần khổ đắm trong sinh tử

Gieo phàm nhân hối ngộ trì tu

Kim thoàn kề dựa hối sửa mình

Sống cảnh bần ngang nắng sương mù.



Ngươn tàn tơi tả đó màn cơ

Thân sanh trần tội cảnh mê mờ

Bao lâu khờ tỉnh hồi tâm sám

Công Đồng mở cửa thuyền vững chờ.



Kim thuyền trước giữa này sông hội

Nay gươm Trời bằng xử việc đời

Sám hối kịp giờ thuyền trở bước

Hoa vân HOÀNG MẪU điển xét soi.



NAM CỰC ĐẠI ĐẾ cuộc Phong Thần

Canh Tí thần long ẩn bóng lân [chữ lân 潾 có nghĩa là nước trong]


TÔN CHƠN NHƠN TỔ xoay chiều hướng

PHẬT TIÊN THÁNH THẦN hạ thế trần.



NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ đêm nay kết

HỒI LINH SƯ TỔ lược giải hết

THIÊN QUÂN CHÂU THÁI đề bất thoái

Lai lân tam hội bất giải tuyệt.



TƯỚNG CÔNG THƯỢNG LÃO chuyển Tây du

Khôi mạc đại thần thánh đại từ


LƯU HẢI THIỀM ĐẾ ngươn đạo hóa

VÔ LƯỢNG THIÊN TRIỆU CHÂN LÃO như.



[Vương Huyền Phủ truyền đạo cho Chung Li Quyền. Chung Li Quyền truyền đạo cho Lã Động Tân và Lưu Hải Thiềm (Hải Thiềm Tử, Thanh Thành Trượng Nhơn, tên Lưu Thao). Tất cả bốn vị này cùng Vương Trùng Dương được gọi là Bắc Ngũ Tổ của Toàn Chân giáo.]




DƯỢC VƯƠNG CỔ PHẬT vi không điện

Mở rộng luật căn triệu thanh viên

Xem luật thần cơ huyền cốt ký

Chứng tam chủ cổ đình dược thiên.



THIÊN XA TẢ TƯỚNG NHỊ LANG THẦN

Bốn phương thiên hạ đắp nền nhân

Tây Kim Môn cửa thi hành luật

Thượng Ngươn đạo hóa lập cân bằng.



NAM PHƯƠNG NGŨ ĐẠO lượng âm công

Chư Tiên chư Thánh đất Nam đồng

Hiếu sinh chi đức người cảnh sắc

Hoa ngọc nụ vàng muôn ức thông.



DIÊU TRÌ VƯƠNG MẪU NƯƠNG NƯƠNG lịnh

Hội Yến lộng tàng nhượt tiễn linh

Ngươn Tam kim vĩ nan tri hướng

Vùng chơn nhơn hiển ra sức mình.



HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ LONG BÀN VŨ

Tam QUỐC càn khôn cổ ly từ

Đông Tây Nam Bắc xoay chiều hướng

Cát giáng lai lâm ứng khắp lưu.



LỮ TỔ THUẦN DƯƠNG công đại hữu

Thời khó tam ma thập lục ưu

Pháp lực linh ứng chuyên cần niệm

Giải tục xét soi diệt tội trừ.



HẬU THỔ NƯƠNG NƯƠNG TRUNG NHẠC lễ

Tháo gỡ bước chân hội kỳ về

THANH CUNG NGUYÊN TỔ khôi mạc tĩnh

Gươm cả nền không chiếu dụ thế.



LƯU MÃNH TƯỚNG QUÂN ÔN NGUYÊN SOÁI

Thiên khai cuộc tạm sắc hoa khai

Điền đăng tác giác mất nâu thần

Không pháp xa giới chăm giũa mài.



THÔI PHỦ QUÂN KỲ MINH TẾ dự

Bóng tĩnh xoay chiều cửa Tây như

Cơ năng chỉ hướng tiến thôn nhựt

Vi danh vi tính huyết hóa từ.



ĐẠI ĐẾ LINH TỂ CHƠN QUÂN TỔ

Long châu Nam ẩn quyết kiên chờ

Sen báu hiện hình then hằng mở

Tỉnh giấc mê xuyên chúng thiệt vô.



THỦY LONG THÁNH MẪU NƯƠNG NƯƠNG giáng

Tâm hầu pháp bảo thoảng tiên nhan

Hướng chiếu công lượng thi hành luật

TĨNH ẤN CHƠN QUÂN tự THỪA QUANG.



TÁO QUÂN TƯ MẠNG thiên chư tử

Tử bạch phát thành khai xuất tu

Hiện Nhâm Ngưu ứng thị vi kính

Thượng Lão Đức Thiên chư quốc du.



NAM ĐẨU giáng hạ liệu khó bâu

Màn lớp đổi xưa chắc ý mầu

Sắc thể thay đổi bao kiếp lượt

Thay đổi nhân hình trống thúc đầu.



LÔI THINH ĐẠI ĐẾ liệu mọi phần

Ấn cơ cương bậc mở huyền năng

KIM LONG TỨ ĐẠI VƯƠNG hồng toán

Tát nước ao sen lý cảnh phân.



CHƯ PHẬT giáng thế xét lành dữ

Giáng hạ Kim Bàn bất khả như

Chủ lộng thiên kỳ phá đồ trận

Lành dữ thần hay tỉnh mà tu.



CỬU THIÊN HUYỀN NỮ phi cội mở

Môn đề phá trận ký ấn cơ

An bình Thượng Hội ĐỨC TỪ tạo

Phẩm MÙI mở cảnh vận tới chờ.



TAM MAO ỨNG HÓA CHƠN QUÂN hiện

Phàm thế cầu tu đủ vận liền

Trung phân lão chủ chuông vang tọa

Đờn khải lão khoan hữu phước duyên.


[Mao Doanh, Mao Cố, Mao Trung là Tam Mao Tổ Sư của Mao Sơn phái]



Cửu cung chơn điển TÂY VƯƠNG MẪU

Hư không dụng pháp Tí phong lâu

GIANG ĐÔNG [THẦN] NGŨ ĐIỆN [VƯƠNG] xuôi khung cảnh

Áo mão Ta Bà một cảnh mầu.



THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN vạn trượng thiên

Càn khôn chiêu phẩm xuất kỷ nhiên

Vô Vi sắc chỉ vâng an pháp

Phi thanh tuyệt lượng Chủ Cung Huyền.



HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ nhíp bổn lai

Cảnh lư giai bất hoàng chí khai

Duy hảo xoay cơ chiều an nghĩ

Điển thanh huệ pháp lực Phương Tây.



THÁNH PHỤ MINH CHƠN ĐẾ vô hình

Khai minh nguồn sáng GIÁP mở linh

Tam Ban vào bước long kỳ cảnh

Bổn thiện chí cao Tây Trào thinh.



THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ lộ chữ THIÊN

Trời Âu trống thúc lộ tạng HUYỀN

Càn khôn trống lịnh oai thinh phủ

Bờ dư ngâu ngạn sắc chỉ điền.

[Thiên Quan Đại Đế = Vua Nghiêu = Thượng Nguyên Nhứt Phẩm Tứ Phúc Thiên Quan]



DI LẠC thiên lạp lực thiên lộ

Giải không độ nhứt thanh tịnh mô

Chân thật bất hư vô tuệ ngại

Sắc bất dị không ngại cố vô.
[thiên lạp = ngày mùng 1 tháng giêng]




TỬ ĐỒNG VĂN XƯƠNG kim quốc châu

Chúng nhân trong đời thệ nguyện cầu

Quán niệm cần niệm tâm chính niệm

Lộ pháp chú cam thông lực mầu.


[Tử Đồng Văn Xương = Văn Xương Đế Quân = Văn Xương Tinh. Các sách viết rằng: Văn Xương Đế Quân vốn sinh đầu đời Chu, đã trải 73 kiếp hoá thân, từng là sĩ đại phu, cuối đời Tây Tấn ngài giáng sinh nơi đất Thục, tên là Á họ là Trương, tự là Bái Phu, được lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế cho chưởng quản Văn Xương phủ và lộc tịch (sổ sách về quan lộc) của nhân gian. Trích wikipeadia]



ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT nhân ái kính

Năng hiện giới linh thật nhiệm hình

Cứu hồn năng chớ trầm luân khổ

Tam đồ khổ não cứu nhân sinh.



TRỊ NIÊN THÁI TUẾ chuyển luyện nhiên

Lịnh mở Đại Đồng thôi trần hiện

Tọa tại mãn đường kỳ bàn chính

Càn khôn phong thủy thái bình quyền.



BÌNH LINH CÔNG THÁI tân khai chuyển

Đông Tây Nam Bắc pháp xuân thiên

Một cửa cột chứa cột chắc ý

Lối đường thiên ý tới hoa liên.



KHƯU TRƯỜNG XUÂN TIÊN mở lối từ

Cuộc án liệu bâu khai vô khứ

Xuân sang qui luật đối cuộc án

Bửu điện trường sanh lục bá tư.



GIANG ĐÔNG THẦN xuất hoa sắc cảnh

Khứ bảo ky thần thành bửu danh

Vô kỳ tại đỉnh trung ương cổ

Tam điển ĐẠI ĐẾ TRƯƠNG trải lành.



NGƯU LANG CHỨC NỮ TIÊN NGỌC hiếu


Sai nguyệt hoa liêm khúc tam triều

Tây Cung ngàn dậm liên kết khải

Phong cửa chánh Tây chuyển thúc nhiều.



LÔI TỔ THẦN HỎA hiển linh ban

Thử xem thâm thẩm lập vô thần

Kim chơn thông quyết tôi hiền lược

LÃO THÁNH NHƠN y tái đương quân.



NHỊ LANG CHÂU TỬ thuần ân trải

Định ý sông HÀ Cửu Liên Tây

Rạch mở hồng cơ kêu nghe nói

Thiện nang tàng chúng muôn thế giai.



CÁT CHƠN QUÂN TỔ một đường lai

Khó chi thần khí lưỡng cơ tài

Chúng tàng nhiên lẽ âu huyền nắm

Thời khó qui THIÊN HUYỀN giới Tây.



NGƯƠN SOÁI TRUNG NHẠC ĐẠI TRƯỜNG ĐẾ

Cơ biến kiền khôn lượt sóng bề

Thánh ngoại tôn Lão TRỜI thế giái

Quân Thiên lượng cát ngoại phương tề.



THÁI TỬ QUAN THÀNH [THÁNH?] CHÂU an bảo

Lão thượng vân đề với bộ cao

Đàm CHƠN NHƠN CHỦ QUÂN THIÊN HẠ


Mở ngõ một phen hai ức vào.



TRUNG ƯƠNG HUYỀN ĐÀN LÔI ĐÌNH KHUNG

Lão thuyết tịnh không hình thế cung

Ta hiệu QUÂN LÃO vi cứu độ

Khải đờn kêu thế chỉ rõ cùng.



NHÃN QUANG THÁNH MẪU cơ đàn chỉ

Phen này máy tạo lịnh tàng vi

Bạch vân kiếm hiệu vi huyền diệu

Bàn cẩm khí thần Mẫu tôn vi.

[Nhãn Quang Thánh Mẫu là một vị nữ thần trong Đạo giáo chuyên trị bệnh về mắt, được coi là hóa thân của Bảo Sanh Chân Nhân Hoằng Đức Bích Hà Nguyên Quân (gọi tắt là Thái Sơn Nương Nương, tức nữ thần núi Đông Nhạc). Nhãn Quang Thánh Mẫu còn gọi là Nhãn Mục Nguyên Quân, Nhãn Vương Nãi Nãi, Nhãn Quang Thánh Mẫu Huệ Chiếu Minh Mục Nguyên Quân v.v…]



HOA NGHIÊM BỒ TÁT bất tại nơi

HẬU THIÊN LONG MẪU linh điển thời

LINH SƠN NGỌC lạc tề thủ phước

Lưu sử giả đàng Long Huê ngồi.



[Linh Sơn Ngọc là một vị thánh mẫu trong văn hóa Mường, đền thờ tại Lạc Thủy, Hòa Bình, và trong truyền thống đạo tam tứ phủ]




CỬU LIÊN BỒ TÁT chư linh độ

Đảo hướng phong di đại phát thu

Tất khí tiên cung đình kỳ phiến

LINH QUANG NGŨ HIỂN cứu chúng mô.



ĐẠT MA SƯ TỔ cơ giáng tái

Chống ghe dục hải chuyển đàng khai

Đức tài điểm trống lịnh hồi ký

Sư Tổ phương điển khí thể hài.



ĐẠI THÀNH CHÍ THÁNH [VĂN] TUYÊN KHỔNG TỬ

Giải mười phương chí đảo đường như

Mộc tại trường xuân Tây Nam Bắc

Ân thượng bộ danh Vương Khổng Từ.



NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT khứ vị an

Tam xuân túc tế hoạt tại đàng

Phổ kinh thuyết biểu vạn thiên hóa

Niên lai phong tại tác ý thoàn.



THIÊN LONG TỨ ĐẠI THIÊN VƯƠNG bản

Phật mở vạn linh hữu túc màn

Tây HUYỀN phong bản oai nghi lịnh

Đời tạm mượn tuồng cảnh mục sang.



Vụng nghênh linh đáo giám kim chương

THANH CUNG VÔ CỰC THƯỢNG THÁNH VƯƠNG

Huyền tôn chơn cảnh rểu uy chủ

Vạn Thiên chư Phật một cảnh đường.



Nghe cảm tâm chuyển hóa vô biên

Cửu Trùng quyết đã tâm quang hiền

Kỳ linh ứng diệu pháp bảo đắc

THƯỢNG ĐẾ chí nhân tạo ĐẠI THIÊN.



Tỏ lý thành không thế giới hư

Hoàng viên nhân đắc khoái lạc từ

Nước Trời trong sạch vui cảnh Phật

Tâm là cội rễ thật quang hư.



Mau tỉnh lại khấu thủ qui y

Cảnh Phật vẻ vang khá tu trì

Cảm lòng đất Phật mau mau bước

Chi trần lụy cấu cố bước đi.



DI LẠC PHẬT VƯƠNG niệm một tràng

BÁT ĐIỆN BÌNH VƯƠNG hạ lưu sang

QUANG ĐẾ MINH THÁNH thông chính giác

Cửa then hằng mở phóng đại quang.



THÁI DƯƠNG MINH THÁNH vĩnh mạng hề

Cứu độ tiên linh thoát chúng mê

Đón kẻ quyết kiên Tây Lạc Quốc

Cảm ứng nhiệm mầu sở nguyện về.



DIỆU TẾ CHƠN QUÂN QUẢNG HÀNH VƯƠNG

TÂY NHẠC ĐẠI ĐẾ vọng thiên tường

Tâm niệm lục tự hồng danh đức

ĐỊA QUANG ĐẠI ĐẾ chói cạnh tường.


[Diệu Tế Chơn Quân là hiệu của tổ thứ 21 của Thiên Sư Đạo tên Trương Chính Tuỳ , tự là Bảo Thần. Năm 1016, Tống Chân Tông mời vào cung và lập Thụ Lục Viện và ban hiệu là Chân Tĩnh Tiên Sinh. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thanh Hư Quảng Giáo Diệu Tế Chơn Quân.]



THÁI ÂM HOÀNG HẬU sen vàng chói

LỤC VẠN CỬU THIÊN hiệu đa thời

LÔI ĐÌNH THIÊN QUÂN ngụ đồng Bắc

TỐNG ĐẾ VƯƠNG TAM [ĐIỆN] tạng kế ngôi.



QUAN ÂM PHỔ MÔN cứu khổ hạn

Chiếu kiến ngũ uẩn bất diệt nan

Diệc Đạo vô trí diệc vô sắc

QUÁN ÂM BỒ TÁT tỉ thiệt can.



Báo ân CHƠN VÕ HUYỀN THIÊN ĐẾ

Long lân qui phụng hào sắc đề

Xuất Tây Trào giáo thay đón nhận

THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ sở vân huê.


[Thiên Quan Tử Vi Đại Đế là một trong Tam Quan Đại Đế. Tam Quan Đại Đế gồm ba vị là Thượng Nguyên Tứ Phước Thiên Quan Tử Vi Đại Đế , Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan Thanh Hư Đại Đế , Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Động Âm Đại Đế . Nếu gọi đầy đủ thì là Tam Nguyên Tam Phẩm Tam Quan Đại Đế. Trong Đạo giáo, địa vị của ba vị nầy gần với Ngọc Hoàng Thượng Đế . Đạo giáo cho rằng ba vị nầy có trách nhiệm về ba yếu tố: ban phúc, xá tội và giải trừ tai ách cho con người.]



DIÊM LA VƯƠNG, THÁI SƠN VƯƠNG điển

NGŨ ĐIỆN GIANG ĐÔNG đệ nhị nguyên

DI LẠC TÔN CHƠN HUYỀN KINH NGỌC

Bổn nguyện bảo sanh Tây du HUYỀN.



THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN tầm bờ dư

NGUYÊN SOÁI ĐỘ TƯỚNG NHƠN DOÃN tư

THIÊN SƯ HỨA oai hiển Vương Tây

THÁI TUẾ NIÊN TRỊ khương hiệp trừ.


[Doãn Hỉ, tự Quan Doãn, hiệu Văn Thủy Tiên Sinh, Văn Thủy Chân Nhân, còn gọi là Doãn Tử. Quan Doãn là quan viên thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Quan Doãn giữ chức lệnh đóng giữ cửa ải phía tây thời Chu Chiêu Vương. Một hôm thấy được tử khí đông lai, lúc sau Lão Tử cưỡi trâu xanh từ phía đông đến, Quan Doãn ngăn lại cầu học. Lão Tử truyền lại hơn 5.000 chữ, sau soạn thành cuốn Đạo Đức Kinh. Quan Doãn để lại tác phẩm Quan Doãn Tử 9 thiên, được nhắc đến trong mục Nghệ văn chí của Hán thư, nay đã thất truyền.]


[Tứ Đại Thiên sư là bốn vị tiên có vai trò đón tiếp như các vị sứ giả trên Thiên Đình trong Đạo Giáo Trung Hoa. Gồm Trương Đạo Lăng Thiên Sư, Hứa Tinh Dương Chân Nhân Thiên Sư (Hứa Tốn, tự Kính Chi), Khâu Hoằng Tế Chân Nhân Thiên Sư, Cát Tiên Ông Cát Hồng Thiên Sư. Đây là bốn vị đạo sĩ có thật, đã từng tu luyện theo Đạo giáo và được tôn lên như là những vị chân nhân, thiên sư.]



HỮU THÁNH CHƠN QUÂN vô số ức

Chính nhân chính giác DI ĐÀ luật

Hiển ảnh mười phương Phật vô lượng

Hoa sen khai sắc Nước Phật lực.



NGƯU LANG CHỨC NỮ lưu khải thình [thình 盛 = gìn, chỉnh đốn]


Tướng chơn thượng tướng hạo thiên lình [lình 令 = linh, lịnh]


Cảm ứng tánh trung thay sanh hảo

TRUNG NHẠC THỦ QUÂN cựu chánh nghiêm.



ÔN SOÁI NGUYÊN TÂY phùng KỴ TRƯƠNG


CHUNG SAN CÔNG TƯỚNG chuyển khai hướng

CHÂU TỬ NHỊ LANG THẦN tốc NHỊ


TẢ TƯỚNG truyền long phụng đáo phương.


[Ôn Nguyên Soái là một trong bốn vị thần tướng canh giữ Thiên Đình gồm: 1) Mã Nguyên Soái, còn gọi là Mã Nguyên Quân, Hoa Quang Thiên Vương; 2) Hoa Quang Đại Đế Triệu Nguyên Soái, tức là Vũ Tài Thần Triệu Công Minh; 3) Triệu Huyền Đàn Ôn Nguyên Soái, tức là Ôn Quỳnh, Đông Nhạc Đế bộ tướng; 4) Khang Nguyên Soái, tức là Khang Thiên Quân, Nhơn Thánh Nguyên Soái.]



CHUẨN ĐỀ VƯƠNG BỒ TÁT oai linh ứng

CỬU ĐIỂN HUYỀN THIÊN KINH NGỌC cung

ĐẠI ĐẾ NAM CỰC LỤC ĐIỆN minh

THÁNH MẪU TÂY TRÀO chiếu lạc phùng.



Thiên điển phùng chơn phủ minh tương

Trung Ương Huyền Đàn Cửu Tây trường

Ngọc Tòa lôi phục triều ngươn các

LƯU THẦN BẮC CỰC THÁNH VĂN VƯƠNG.



NAM ĐẨU giáng hạ Liên Hoa Thượng

Vương hầu anh tế vụ càn đương

Lộc nhơn tuồng giải DI ĐÀ QUỐC

THÍCH CA MÂU NI thiện chí vương.



PHÓ TƯỚNG PHỤC MA HIÊN VIÊN thủ

Táo mậu THÁI ÂM xoay linh như

Chư Phật Niết Bàn phước lâm hội

Phước họa đời này tỉnh mà tu.



NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT vô tự khai

Phong Đô vạn xứ thuận thảo ngay

Di Đà thủy khí án quân phủ

Huỳnh Lâu kim sắc hóa âm thay.



THƯỢNG NGƯƠN THẦN CHÁNH LƯU MÃNH QUÂN

Ngoại vĩnh ân kỳ GIANG ĐÔNG THẦN

CHÂU [DO] trận tử đồng GIA CÁT TƯỚNG

LINH CHƠN LÃO THƯỢNG đăng trụ hoàn.



Chốn non xanh Tam Thừa cam diễn

Lượng tổ đường NHƯ LAI PHẬT hiện

MỘC LIÊN HOA trải hạnh chúng sanh

VĂN XƯƠNG bổn bất kỳ siêu hiện.



CANH ngũ niên nhứt nhị cửu giao (2020)

THƯỢNG ĐẾ chỉ dụ tại điện đào

Đạo nhơn lời bạc đạm suy tôn

GIÁP THÌN năm ngũ THƯỢNG ĐẾ vào. (2024)





PHONG ĐÔ ĐẠI ĐẾ đề chữ tên

Uổng Tử Thành vâng tấu lực nền

Cơ thần Ngũ Đạo nhân lai tác

Đại giác khuyến quân người vật chuyển.



ĐỨC THÁNH KHỔNG TỬ bất năng dịch

Tử rằng Phật nói Tử khả tích

Nghe thấu nghĩa chi KHỔNG TỬ cầu

HUỲNH LONG minh đạo MÂU NI THÍCH.



Vân vân đạt viễn NGỌC KINH THƠ

LỮ TỔ dựa bàn truyền chỉ đồ

Lời Thần Tiên Phật Tiên Thánh chỉ

THƯỢNG ĐẾ THÀNH HOÀNG soi xét vô.



Ngó thấy cơ tự đặng phước thầm

Tây Phương an bảo với lạc tâm

Khải phong nhiêm văn tấn sĩ minh

Liên trì ai cáo tả kinh văn

Phùng lư đương thủ lưỡng các tầng

Hoàng bổn tôn vi phục sơ kỳ

Cương xích bổ chỉ hạ linh quang.



Chín phẩm sen vàng khai thấy thật

Có duyên gặp TAM KỲ TIÊN PHẬT


Chiếu hiển vinh THIÊN tỏa HUYỀN cơ

MÂU NI NGỌC KINH truyền cửa bát.



HUYỀN sai ông LỮ cùng tạo hoa

Bát nhã thuyền linh nước ma ha

NHƯ LAI VÔ THƯỢNG thậm thâm hiện

THIÊN giao Thái Pháp HUYỀN hộ ra.



DI LẠC, THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ thần

THÍCH CA NHƯ LAI Thượng Ngươn Ba

THƯƠNG LÃO cảm ứng phụ Thánh Truyền

VƯƠNG LINH THẦN HỎA THƯỢNG TƯỚNG QUÂN.


[Vương Linh Quan Thiên Quân là Thiên Lôi (Lôi Công, Linh Quan). Kinh Minh Thánh tả: "Kim tinh châu phát. Hiệu tam ngũ hỏa xa Lôi Công. Phụng chủy ngân nha. Thống bách vạn tỳ hưu thần tướng. Phi đằng vân vụ, hiệu lịnh lôi đình. Giáng vũ khai tình, khu tà trị bịnh." Dịch: Mắt vàng tóc đỏ. Hiệu là Lôi Công coi ba mươi lăm xe lửa. Miệng nhọn như mỏ chim phượng, răng bạc. Chỉ huy một trăm vạn thần tướng dũng mãnh. Lướt mây cưỡi mù, lịnh ban sấm sét. Tuôn mưa làm nắng, đuổi tà trị bịnh.]




NAM CỰC ĐẠI ĐẾ MINH CHƠN ĐẾ


TRUNG ƯƠNG CỬU ĐIỂN HUYỀN MINH ĐẾ

DI ĐÀ QUANG NHỰT THIÊN TỬ liên


ĐÔNG HOÀNG ứng hóa hư tịnh huê.




Phân tư nan lái ngõ Phật Trời

DI ĐÀ chí tỏa giấc mơ cơi

Mở rộng nang cẩm sơn linh định

Vân du phong vạn tạm cảnh ngơi.



Bồng Lai cõi chuyến NHỊ tử THIÊN

HUYỀN khai cơ pháp lập CANH niên

LÔI ÂM PHẬT TỔ định cửa thiền

Một nang thuyền bước đến hoa liên.



THIÊN Ý trắc ẩn

THIÊN QUÂN VƯƠNG LÂM


Cõi Nam rộng mở

Non vô ảnh mới

Người thời bỉ thử

Thanh sử Ngươn Ba

Thì đọa luân khổ

Năm hồ thú lạ

Trẩm đà truyền trao

Thích Đạo, Tam Giáo

Cảnh nào cũng vậy

Xét thay dung đời

Khôn thời gì khó

Trăng lờ bị khổ

Tỉnh lo một tha

Muôn ngoa nên sửa

Vào tựa Phật y

Qui y Thích Đạo

Tam Giáo một lòng

Mới thông đường cả

Phải trả buổi này

Kim khai luân pháp

Đừng lấp nghe khuyên

Hoàng tiên nêu mãi

Mười hai huyền hộ

Gần tỏ trước sau

Cửa lầu chói hiện

Lòng riêng mới gọi

Thấy cõi tục thân

Vương Quân chi hạ

Nói ra tai ương

Bồ Đề Ca Thích

Vân mịch tiên phong


Phẩm công luyện chính

Mãn kinh phục lôi

Ấy mới nương phép

Chẳng hẹp còn nghe

Hoàng phê bạch tự

Huyền phú nêu danh

Tam Thanh thấy PHẬT

DI LẠC NGỌC HOÀNG


TÂY BANG PHẬT TỔ


Điện đô Như Lai

DIÊU TÂY VƯƠNG MẪU.



Gió Tây lai thổi dứt điểm CANH

Một huê bông trổ trở cung thành

Sen mọc đâm chồi ai hướng lấy

Tạm điển thiên hành hướng liên thanh.


ĐÔNG HOÀNG ĐẠI ĐẾ

DIỆU TẾ CHƠN QUÂN

SỞ GIANG VƯƠNG KHẢI

BIỆN THÁI SƠN VƯƠNG

CHÂU TƯỚNG NHƠN THÁNH

ĐÔ THÀNH HOÀNG NAM

THÁI ÂM HOÀNG HẬU

Cung tấu DIÊU TRÌ

ĐIỆN NHỊ SỞ GIANG

ĐẾ QUÂN VĂN XƯƠNG

THÁI THƯỢNG NGUYÊN SOÁI

DINH ĐẠI LÔI TƯỚNG

THIÊN THƯỢNG HUYỀN KHÔNG

LƯ BỒNG CHƠN VÕ

LỮ TỔ THIÊN QUÂN

THÀNH HOÀNG ĐẠI ĐẾ

NGÔI BỆ HUYỀN THIÊN

THẤT ĐIỆN ĐÔNG NHẠC

HỘ PHÁP VI ĐÀ

ĐẠT MA SƯ TỔ

PHẬT TỔ THÍCH CA

DI ĐÀ giáng hạ.

Thập Hội Cửu Liên đáo hạn kỳ

NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT hiện cửu vi

HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ MINH CHƠN ĐẾ

THÍCH CA PHẬT TỔ di lập nghi.

Đêm thanh tịnh tiếng đàn hồi vọng

Bởi chơn đài ngày lẫn đêm mong

Cơ mầu máy tạo huyền thâm phépDứt điển TÔN CHƠN chuyện Tây Đông.

[tiếp theo 19/8/2020]

PHẨM HUYỀN THIÊN THƯỢNG TỪ ÂN KINH



Lý Thiên Tây Trúc bộ hoá ngôi

Khảo trần nhân loại cải cốt mới

ĐẠI THƯỢNG VẠN TUẾ ĐỨC tái sanh

Cung khấu DI ĐỨC ĐẾ HOÀNG hồi.

Một mối bước lên Thánh Tòa Liên

Qui căn nguyên dịch thủ như điền

Phàm tại cơ phong hữu cầu biết

Hiển hiển năng dĩ nhứt nhập thiền.

ĐỨC HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ CAO MINH

NHÃN KINH NGỌC PHÁP TRUYỀN CHỈ THINH

Quân cơ Canh lực kinh biến kế

Xuất phát trục thâu tọa hạ đình




VI HUYỀN THIÊN THƯỢNG TỪ ÂN KINH



Giáng cơ giải gấp giác tánh mình

Trong ngoài biến dậy tư bề thế

Cõi thế trần na định giờ thình.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ THỂ đáo lâm

NGỌC ĐẾ loan dư truyền đối tầm

THÁNH CHỦ THIÊN THƯỢNG thiên thượng hóa

NGỌC KINH HUYỀN THÂM PHI ĐÀNG TRẦN.

THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ thu nhiếp linh

Đừng mê đừng loạn tỉnh thức mình

Cho thiết cho tỉnh thân ta một

Thái Thượng Cao Vương ấn hiện thinh.

CHƠN VÕ HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ KINH

Sắc mà không sắc ấn diệu linh

Cội rễ một khi tăm tối hiển

BAN PHÁP ĐẮC TRUYỀN NGỌC MINH KINH.

CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT THÁI SƠN VƯƠNG

NAM ĐẨU BẢO THIÊN điểm trống đường

THÍCH CA NHƯ LAI thiện hướng đỉnh

LÔI ĐÌNH THIÊN QUÂN xuất chiếu đương.

QUAN THÁI TỬ kỳ quờn phùng lộ

QUAN ĐẾ giáng sanh thế sanh vô

NAM CỰC TIÊN ÔNG tọa điền xuất

DIỆU TẾ CHƠN QUÂN khả dĩ mô.

DIÊU TRÌ VƯƠNG MẪU Tây Thành hiển

Xuất nhập nhập xuất không tí xuyên

Vô hình xuất tỏa vô kỳ bảo

Sắc nhãn Thiên Cung cảnh lai duyên.

Tàn Canh hoảng khắp dựng bức tranh

Cơn nạn phát xô điều chẳng lành

Phụng chỉ THẾ TÔN ai lương thiện

Khai triển chí hầu một lòng thành.

LỮ TỔ giáng cơ ĐỨC ĐẾ toan

Bồ đề bất khả trí khôn ngoan

Chớp nhoáng đều không bền lâu đó

Dạy phép KHÔNG tâm đạo khắp trần.

Hoa sen trong lửa cơn nguy giới

Cuộc đớn đau nguy thời bầu linh

Muôn phương xao động điểm hình

Tam Kỳ mây rẽ phép linh Lạc Đồ.

Cửu Thiên tư coi sổ một kỳ

Năm Canh ngũ tư vị thần minh

Phụng khiếu loan ca thinh thinh

Gọt mài thấm dạ Ngọc Đình hòa âm.

Dương pháp kinh luật phạm lầm sai

ĐẾ MINH DIÊU HẬU mài thúc linh

Phục hồi bảo ấn giai đình

Lời kinh đạo rộng thinh thinh Tây Trào.

Bảy ngôi Chúa Thánh hậu lai di

Thế gian động càng thế gian suy

Tầm định thực diễn vạn kỳ như

NGỌC MINH kỷ sự trận đài kỳ.

Thời mạt hậu tu hiền ẩn đạm

Luật hiền trao ân phước đức lâm

Tam đàn điểm xích luật Thiên vi

Địa cơ sanh hóa nhữ khởi tầm.

Xuân Tây vô vĩ hoản mục công

LẠC DI qui bổ chủ mục đồng

Ngoại ngoại Tây Bắc Đông Nam đoái

Tam Kỳ Phổ Độ đến Hoa Long.

Cơ đạo trở lại thiếu tân toại

Xoay vận đất căn vĩ triêu lai

Hai bốn từ phổ châu đường giáo

Không thị tất thị khứ tư hài.

Đứng chờ khai đuốc đạo cả thành

Phong vân ngoại bả ứng chung thanh

Thời khắc giai sử từ vọng pháp

Phật Thánh Tiên Thần giữa niên Canh.

Vô vi vô thị không sạch lòng

Thông đạo lý lành thiện hữu công

Đồng thiện đồng thần khai thiên phước

Hóa đạo hóa nhơn đoái ân đồng.

Quản khuyến quản hành khuyên người phải

Tương thân tương mục phân việc giải

Bất khí bất dõng không phạm khiêm

Nghĩa thủ nhẫn đoan giảm mọi ngày.

MINH THÁNH QUANG ĐẾ DIỆU TẾ CHƠN

THÍCH CA NHƯ LAI CHUẨN ĐỀ hườn

TIÊN ÔNG NAM CỰC VĂN XƯƠNG ĐẾ

DIÊU TRÌ VƯƠNG MẪU khiết Tây Sơn.

Khuyên người noi đạo trọn ân

Công cha nghĩa mẹ mười phần trời cao

Chỉ nẻo giải việc cù lao

Thuận hòa yêu mến đạo vào lời ra

Khuyên người biết xét dung tha

Sang hèn giàu có dung hòa khuyên nhau

Không phân người trước kẻ sau

Tu thân nhẫn nhịn giúp nhau chung cùng

Khuyên người tu niệm yêu dùng

Bữa cơm bát nước rán dùng khó chi

Giàu sang một bữa chay thi

Lòng chay khó lắm khó chi miệng ngoài

Đời thong thả từ bi cảm ứng

Đảnh an cư nơi dựng mở mang

Nhắn những ai khuyên buổi canh tàn

Chịu cay đắng mới rằng canh cải

Ngươn Ba tuần hoàn xây dựng lại

Tu Đạo Tiên với ai quy giái

Buổi nghịch này trời đất vần xoay

Một phen khổ buổi này phải trả

Đời quá tệ đức tu cải họa

Cõi thế nhân đâu mà chi đức

Việc tu hành câu rằng tâm lực

Phải suy mùi đạo MỤC DIỆN LAI

HUYỀN CHUYỂN PHÁP MỚI chuyện huệ mài

Giảng thông tứ thế giai mùi đạo

Tâm mới hãn Như Lai cơ đáo

Sau là phải môn nào thường chuyển

Đừng gián đoạn hào quang chói hiển

PHỤC LÔI THIÊN XUỐNG BIỂN RỒNG KIA

Núi Linh San không đổi không lìa

Phải bồi đức thuyền kia sang rước

Người trăm năm này sóng cao trược

Nặng năm giây bọt nước chốc tan

Cõi bờ nay sóng bủa điêu tàn

Trải Lôi Âm cho rạng phải soi

Cầu chung đãi Lôi Âm mới tới

Biết giả chơn nên mười chưa đặng

Qua đời này lấy đó mà răn

Trời rộng mở sáu vạn thu dư

Kinh bạch tự chuông linh kêu giữ

Đờn không dây khải thử khó nghe

Tịch tịch tang vô phước không dè

Ngâm chỉ sợi ông vè thoái thoát

Kiếp duyên tàn Diêm Phù kiếp thác

Trống đại hùng khai mạt buồn xem

Oan duyên nặng quỹ cha tưởng liệm

Mắc nạn rồi linh kém phải toan

Chữ A DI lòng niệm tâm nhàn

Cửa bác nhã sen vàng thấy Phật

Chín phẩm khai bồng tháp Tiên Phật

Đây huyền cơ sên đất bồ đề.

Đàn kêu khổ ải mà qua

Tu hành cho rạng Long Hoa cửa lầu

Đàn kêu trần độc hang sâu

Tiếng đờn tai lóng nghe câu đạo mùi

Đàn kêu chớ cớ bước lui

Ngựa không bóng xước nằm chui sải bày

Đàn kêu phải trả buổi này

Một phen đời khổ lọc thải năm ba

Đàn kêu ách nạn gần xa

Phù huê ngắm cuộc phong ba hủy tàn

Đàn kêu bảy phần tan hoang

Lọc sàng sảy mãi rả tan vật người

Đàn kêu xét lại mà coi

Câu rằng bất phải hẳn hồi lộ ra

Đàn kêu hai bốn tiết đề

Chỉ mành căng rộng gần kề làm ngơ

Đàn kêu hờn một cội cờ

Tất thảo đồng thịnh nam mô bước vào

Đàn kêu phục xuất nan thao

Xương Kỳ khởi đáo cơ nào Lưu lai

Đàn kêu Càn vọng âm giai

Tốc kỳ tan hóa phản sai động Càn

Đàn kêu hai bãi bầu tan

Liên hoa sửa đổi hoa quang lượng kỳ

Đàn kêu vang dội nổi qui

Thất bề trần lụy đói kỳ phân ly

Đàn kêu tam lục chỉ cư

Tiết vào Thu lãm dụng từ sắc ân

Đàn kêu cấp thiểm thiêu tan

Cơn phong mây rẽ nạn trần loạn ly

Đàn kêu bể sắc chiếu vi

Tam Thiên thương xót trần ni cuộc nàn

Đàn kêu hồi cứ Linh San

Cửu Cung lâm giáng bảo toàn thế nhân

Đàn kêu ai trí khôn ngoan

Tiên Ông Nam Cực giáng đàng độ khai

Đàn kêu nguy kiếp trần hài

Tam Kỳ điên đảo mới hay tục trần

Đàn kêu Canh Ngọc [Đế] xa gần

Chúng dân biết sự điêu tàn lánh xa

Đàn kêu phổ độ hồi ba

Phong vân hữu tiết Thiên Tòa ngoại xuyên

Đàn kêu ba tiếng tiêu biền

Ngọc kỳ hành dễ tu hiền giác an

Đàn kêu ba sáu cung đàn

Dụng đàn khải tấu tam quan xử biền

Đàn kêu khấu thủ Thượng Thiên

Phong xuân khứ lộ ban yên phú thành

Đàn kêu nhân loại chúng sanh

Thiên Khai phước hữu quần sanh an nhàn

Đàn kêu đổi xác lập thoàn

Nhà Tiên liệu bước khai bàn qui căn

Đàn kêu hai tám giáo năm

Phàm tại ký nhựt hành ban Bửu Huỳnh

Đàn kêu vọng tiếng phen kinh

Biến hình chuyển xoáy thình lình chia phân

Đàn kêu xa chạy hóa thần

Kíp mau bước đến Phật ân hội này

Đàn kêu Nam Bắc Đông Tây

Thỉnh cầu Phật Đạo phước may sanh hườn.

QUAN ÂM BỐ TÁT giáng hạ đô

ĐẠI ĐẾ thập phương chiếu dụ cồ

QUAN ÂM ĐỨC pháp lòng thanh tịnh

Khuyên giải độ người niệm nam mô.

Tu hành bạt tiếng tiêu nạn khổ

Vâng chỉ THƯỢNG ĐẾ niệm nam mô

THƯỢNG ĐẾ phê chỉ rồi đây hiểu

Thuật lý thích mình biết sự vô.

TRỜI biết lòng nghe hiểu nhơn hình

Ngực ta năng sự vấn di binh

Thùy hóa Canh giáng tợ cách tiếng

Nhân cầu suy mãn phục lư đình.

Tháng Giêng DI LẠC thiên lạp trời [thiên lạp = mùng 1 tháng Giêng]

Phục lư ngoại tác hạ canh khôi

TÔN CHƠN NHƠN TỔ cấp hủy biến

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ phục khứ hồi.

GIANG ĐÔNG MÃNH TƯỚNG QUÂN nhữ huyễn

Vận cách tiêu suy ngộ cảnh Thiên

THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ hựu khánh ấn

Định chơn PHẬT OAI phong ký niên.

Trăng Hai THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN ứng

Thánh phủ minh Chơn Đế thiết khung

THỦY LONG THÁNH MẪU NƯƠNG NƯƠNG cát

Khai sanh tử tôn TRƯỜNG CHƠN CUNG

QUAN ĐẾ VƯƠNG LINH QUAN THÁI ÚY

THÁNH MẪU HUYỀN ĐÀN TRUNG ƯƠNG KỲ

CHUẨN ĐỀ THƯỢNG LÃO ĐẠI THẾ CHÍ

Tăng phước THẦN TÀI THÁI TUẾ y.

DIÊU TRÌ TÂY VƯƠNG MẪU NƯƠNG NƯƠNG

Nửa cảnh không còn dập dìu ương

Hảo nguyệt phân tác lai như bất

Khấu thủ khấu thủ LÃO MẪU VƯƠNG.

HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ TRUNG ƯƠNG ĐẾ

LÔI ĐÌNH NGŨ ĐẠO chương thiên đề

NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT ĐÔNG HOÀNG TUẾ

NGŨ ĐẾ giáng hạ hội lập tề

Phục thỉnh HOÀNG MINH TÔN


Giai biến khôn vô biến

Nhứt nhứt kiền cầu Phật

Thập đạo tất thị giai

Tánh khả mài thành Phật

Đại từ lực từ bi

Nhứt tâm trì kim bảo

Trực tánh hảo nhu hòa

Khéo giải đạo hạnh chơn

Ba pháp hườn sáng suốt

Thiện Thệ được đời này

Kiến Như Lai Đức Phật

Làm lành Phật pháp theo

Xa đời neo một kệ

Đạo Bồ Đề an lạc

Vóc sáng phát trí vô

Tiêu trừ khổ thường đói

Học nhiều giỏi đúng pháp

Thánh Đế lập khó ai

Mong rằng tài rộng lớn

Đạm bạc khôn ngoan hòa

Tựu Long Hoa hạnh phúc

Thiên giới thực hư không

Đẹp ý lòng cẩn thận.

Thiên cơ cửu phẩm trổi phụng cơ

NGŨ ĐẾ TAM HOÀNG chuyển sắp giờ

Bát Quái Đài hòa Đông Nam Bắc

Hòa chặt âm dương ĐẾ khai bờ.

Thiên Khai địa mở rõ tám mười

Càn khôn định cấu Long Hoa khôi

Thánh Phật Thần Tiên mười phương tỏa

Khởi ánh long diêu chín phẩm ngôi.

Ngày đêm thời khắc rõ tường âu

Mở ra tâm trí điển linh hầu

HOÀNG MẪU phóng quang chơn nguyên mở

Thánh Thần Tiên Phật giải bờ sâu.

Có duyên định lực MẸ dìu sang

An lạc hỉ xả hộ pháp gần

Muôn đường hoa nở mau cất bước

Tịnh thủy ma ha rải mát thân.

Vô hình rành dạy chuyển hóa linh

Ngày về đã hẹn hướng Thượng Đình

Thức tâm tinh tấn từ bi diệu

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VÔ CỰC MINH.

DIÊU TRÌ HOÀNG MẪU tỏa diệu âm

Chín cõi trời hòa khí khai mầm

Lâm triều bát bửu vạn năng khiếu

Nhiệm ý Long Hoa triệu tiên tầm.

Chư Phật chư Thánh chư Tiên hiện

Trực kiến MẪU HOÀNG DIỆU HOA LIÊN

Ban vui cứu khổ thi hành hạnh

Bát nhã thuyền từ nay thời Thiên.

Tạo càn khôn phụng rồng hiển Thánh

Mở cõi đường LONG LẠC QUÂN sanh

ÂU CƠ phụng trổi đầy Tiên Thánh

Buổi hạ màn xoay chuyển Tam Thanh.

ĐỨC HỒNG QUÂN oai thinh khai giải

Tửu chung linh nhiều bận đổi thay

Chín hai ức số truyền mật ý

DI LẠC về Nam điểm đức tài.

Điển vô vi chơn tình hấp thụ

Muốn giao hòa phải lọc lý dư

MẪU án công hòa địa dưới trên

Nhứt tâm đảnh trí khởi lậu từ.

Nay danh sắc KIM TRÌ HOÀNG MẪU

Hạ đáo trần tụ đỉnh một bầu

Mở lục hòa hô hấp ngoài trong

Nguyên chơn tử chớ ngại thủ khấu.

THẦY ĐÂY MỞ ĐẠO KỲ BA

Trò trung phụng tá giác tha đưa người

Thầy đây năng tại vị thời

Trò từ lộng chữ vọng nơi cơ hàn

Thầy đây phút cuối rạng tầm

Trò vai hiển thị trí thâm tái kỳ

Thầy đây tạm xác thế ni

Trò qua cơ thấu từ bi lực cầu

Thầy đây tầm rõ quán sâu

Trò hành thiên lịnh đối đầu nghiệp thân

Thầy đây xoay thấu khắp đàng

Trò thiện tín hiệp chẳng màng khổ nhơn

Thầy đây vô khóa Thánh quờn

Trò học nhơn thiện xác ngươn thoát đời

Thầy đây hiện ẩn chí bồi

Trò cùng trì bảo biết hồi tỉnh tu

Thầy đây thay lực vô từ

Trò công tâm sách xuất từ mệnh Thiên

Thầy đây khấu chỉ khai truyền

Trò về Thiên cửa ức nguyên phục hồi.

Mê tâm loạn tánh ngạ quỷ gần

Từ bi nhẫn nhục bỏ tham sân

Gieo tình thương giúp người giúp bạn

Đoạn ly trần CHÂN MỸ THIỆN căn.

Điểm hóa khai quang nhãn tinh tường

Ngưỡng tòa ĐẠI ĐẠO lộng lầu chương

Rõ trong vô ảnh chiêm bao đẹp

Có đủ hay chưa giấc ngũ trường.

LINH SƠN TỔ MẪU mở trí hùng

Long Hoa sáng rực phụng xòe ân

Ngất ngây điển lành đất Kim Trì

LỤC CUNG THÁNH MẪU trấn bảo an.

Kho tàng NGỌC lộ đuốc mà soi

Nay trần muôn cảnh lạc tâm người

Chớ mong vọng tưởng tên lừng lẫy

Tám chữ vàng chân điển khí trời.

Tạm tiếng hồi lâm giá khung khâu

Cung Trì hườn phản nguyên giáo đầu

Ngọc Khung bàn cũ lui tạm thế

Thống lược cờ đồ hiển khương bầu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét